QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 242/2014/DS-GĐT NGÀY 11/06/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 11 tháng 06 năm 2014, tại Trụ sở Cơ quan thường trực của Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

Ông Phạm Minh Nghị;

Địa chỉ: C22/1 tổ 14, khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn:

Ông Phạm Ngọc Tuyết;

Địa chỉ: C22/1A tổ 14, khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Hồ Thị Lan;

2. Bà Phạm Thị Hà;

3. Ông Phạm Ngọc Hưng;

4. Bà Phạm Thị Hằng;

Cùng địa chỉ: C22/1A tổ 14, khu phố 2, phường Tăng Nhem Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

5. Bà Phạm Thị Ty;

Địa chỉ: C22/1 tổ 14, khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

6. Ông Phạm Văn Thảo;

7. Bà Lê Thị Bảy;

Cùng địa chỉ: C25/2 tổ 09, khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Nguyên đơn ông Phạm Minh Nghị trình bày:

Năm 1975, ông Nghị và bà Phạm Thị Ty (vợ ông Nghị) được trường Tuyên huấn Trung ương 2 cấp đất và nhà ở số C22/1 tổ 14, khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1996 vợ chồng ông Nghị có cho ông Phạm Văn Thảo (em bà Ty) một phần đất diện tích 89 m2 để làm nhà ở. Năm 2000 ông Thảo bán nhà đất cho ông Phạm Ngọc Tuyết. Quá trình ở ông Tuyết đã lấn chiếm thêm ra ngoài diện tích nhận chuyển nhượng, khi bị ngăn cản thì bà Hồ Thị Lan (vợ ông Tuyết) viết Giấy mượn đất ngày 20/09/2005 cam kết sẽ trả lại đất. Năm 2007 ông Nghị được công nhận và hóa giá diện tích đất 358,04 m2, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 891404, trong đó có cả phần diện tích mà ông Tuyết mượn. Ông Nghị đã nhiều lần yêu cầu ông Tuyết trả lại đất nhưng ông Tuyết không thực hiện. Ngày 12/04/2010 ông Phạm Minh Nghị khởi kiện yêu cầu ông Phạm Ngọc Tuyết trả lại phần đất lấn chiếm, theo đo đạc có diện tích 36 m2.

Bị đơn ông Phạm Ngọc Tuyết trình bày:

Năm 2000 ông Tuyết có 2 lần nhận chuyển nhượng nhà đất bằng giấy tay của ông Phạm Văn Thảo, bà Lê Thị Bảy tổng cộng 196,96 m2, ông Thảo đưa cho ông Tuyết các bản chính gồm 1 Giấy cho đất của bà Ty cho ông Thảo, 1 Họp đồng mua bán ngày 30/02/1996 giữa bà Ty với ông Thảo. Các bên không lập bản vẽ, không có cắm mốc giao đất nhưng trên đất đã có sẵn căn nhà, cây trồng ngăn ranh giới giữa nhà ông Tuyết mua với nhà ông Nghị. Đất sử dụng có diện tích nhiều hơn là do có phần đất liền kề Nhà nước làm đường dư ra nên ông Tuyết sử dụng luôn.

Phần diện tích tranh chấp 36 m2 hiện tại là sân nhà ông Tuyết. Ông Tuyết không đồng ý với yêu cầu của ông Nghị.

Tại bản án dân sự sơ thẳm số 179/2011/DS-ST ngày 15/08/2011 của Tòa án nhân dân quận 9,’thành phố Hồ Chí Minh đã xử:

- Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn ông Phạm Minh Nghị.

- Ông Phạm Ngọc Tuyết bà Hồ Thị Lan có trách nhiệm trả lại ông Phạm Minh Nghị bà Phạm Thị Ty tiền giả trị quyền sử dụng đất thuộc một phần thửa 503, tờ bản đồ 13 Bộ địa chính phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9 (tài liệu đo 2003) diện tích 36 m2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí-xảc định ranh của Trung tâm đồ đạc bản đồ- Sở Tài nguyên và Môi trường Tp.HCM đo vẽ ngày 11/10/2010 là 180.000.000 đồng.

Ngoài ra tòa án còn tuyên về án phí và quyền kháng cảo của các đương sự.

Ngày 19/08/2011, ông Phạm Ngọc Tuyết bà Hồ Thị Lan kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Ngày 24/08/2011 ông Phạm Minh Nghị có đơn kháng cáo.

Ngày 16/09/2011 Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 335/2013/DSPT ngày 19/03/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử:

- Chấp nhận khảng nghị của Viện kiểm sát, kháng cáo của ông Phạm Minh Nghị.

- Không chấp nhận khảng cáo của ông Phạm Ngọc Tuyết, bà Hồ Thị Lan.

- Sửa một phần bản án sơ thẩm, buộc ông Phạm Ngọc Tuyết bà Hồ Thị Lan có trách nhiệm trả lại ông Phạm Minh Nghị bà Phạm Thị Ty quyền sử dụng đất thuộc một phần thửa 503, tờ bản đồ 13 Bộ địa chính phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9 (tài liệu đo 2003) diện tích 36 m2,vị trí 4, 5, 6 theo Bản đồ hiện trạng vị trỉ - xác định ranh của Trung tâm đô đạc bản đồ-SỞ Tài nguyên và Môi trường Tp.HCM đo vẽ ngày 11/10/2010.

- Buộc ông Phạm Ngọc Tuyết, bà Hồ Thị Lan, bà Phạm Thị Hà, ông Phạm Ngọc Hưng, bà Phạm Thị Hằng tự tháo dỡ phần xi mãng mái tôn trên diện tích đất 36 m2 thuộc một phần thửa 503, tờ bản đồ 13 Bộ địa chính phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9 (tài liệu đo 2003) diện tích 36 m , vị trí 4, 5, 6 theo Bản đồ hiện trạng vị trí-xác định ranh của Trung tâm đô đạc bản đồ-SỞ Tài nguyên và Môi trường Tp.HCM đo vẽ ngày 11/10/2010, do tự xây cất trái phép, trả lại đất trống cho ông Nghị bà Ty. Chi phí tháo dỡ ông Tuyết bà Lan tự chịu.

Ngày 10/07/2013, ông Phạm Ngọc Tuyết có đơn đề nghị kháng nghị đối với bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm vì cho rằng thực chất ông Tuyết mua hai miếng đất của ông Phạm Văn Thảo, làm thành hai giấy tay, tổng cộng là 178 m2, trong đó có phần đất đang tranh chấp 36 m2.

Tại Quyết định kháng nghị số: 39/2014/KN-DS ngày 24/02/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 335/2013/DS-PT ngày 19/03/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm, đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 179/2011/DS-ST ngày 15/08/2011 của Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Đất tranh chấp có diện tích 36m2 thuộc một phần thửa 503, tờ bản đồ 13 phường Tăng Nhem Phú A, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh do ông Phạm Minh Nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2007. Ông Phạm Minh Nghị cho rằng năm 1996, ông Nghị và vợ là bà Phạm Thị Ty cho ông Phạm Văn Thảo (là em của bà Ty) 89m2 đất để làm nhà ở. Năm 2000, ông Thảo bán nhà đất cho ông Phạm Ngọc Tuyết. Quá trình sử dụng, vợ chồng ông Nghị đã cho ông Tuyết mượn 36m2 đât nêu trên nên ông Nghị khởi kiện yêu câu ông Tuyêt trả lại diện tích đất tranh chấp.

Ngược lại, ông Phạm Ngọc Tuyết cho rằng năm 2000, ông Phạm Văn Thảo đã hai lần chuyển nhượng đất cho ông với tổng diện tích là 178,96m2. Phần đất tranh chấp nêu trên là một phần của tổng diện tích đất mà ông đã nhận chuyển nhượng của ông Phạm Văn Thảo nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Minh Nghị.

Theo lời khai của ông Thảo (em của bà Ty), ông thừa nhận vào ngày 10/12/2000 có lập hai giấy viết tay chuyển nhượng cho ông Tuyết hai phần diện tích đất là 89m2 với giá 2.500.000 đồng và 89,96m2 với giá 35.000.000 đồng, trên đất có căn nhà diện tích 58m2. Ông Thảo thừa nhận chữ ký của mình trong hai giấy chuyến nhượng đất cho ông Tuyết. Hai giấy chuyển nhượng đất do ông Tuyết cung cấp phù họp với hai giấy chuyển nhượng đất giữa bà Ty với ông Thảo là hợp đồng mua bán ngày 30/02/1996 với diện tích 80m2 và Giấy cho đất không đề ngày tháng năm với diện tích 89m2. Như vậy, hai giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 10/12/2000 thể hiện việc chuyển nhượng hai diện tích đất với hai số tiền khác nhau, trong đó một diện tích đất đã có căn nhà. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thấm xác định hai giấy chuyển nhượng đất là một là chưa có đủ cơ sở.

Sau khi nhận chuyển nhượng đất của bà Ty, ông Thảo đã tiến hành đăng ký kê khai theo quy định pháp luật nên cũng cần xác minh làm rõ ông Thảo đã đăng ký với tổng diện tích đất là bao nhiêu mét vuông, đất nằm ở vị trí nào.Theo lời khai của ông Tuyết, khi giải quyết tranh chấp tại ủy ban nhân dân phường thì ông Thảo có thừa nhận chuyển nhượng cho ông Tuyết hai lần với tổng diện tích là 178mnhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh tại ủy ban nhân dân phường để làm rõ lời khai này của ông Tuyết có đúng sự thật hay không là có thiếu sót.

Hồ sơ vụ án thể hiện ông Thảo có nhiều lời khai mâu thuẫn về diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Tuyết. Tại bản tự khai ban đầu, ông Thảo khai đã chuyển nhượng cho ông Tuyết 108m2, nhưng tại các biên bản lấy lời khai sau đó thì ông Thảo chỉ chuyển nhượng cho ông Tuyết 89m2, cần làm rõ tại sao lại có sự mâu thuẫn này. Hơn nữa, ông Nghị, ông Thảo khai chỉ chuyển nhượng cho ông Tuyết 89m2 thì tại sao hiện nay ông Tuyết đang sử dụng diện tích đất thực tế 162m2; vậy diện tích đất chênh lệch nguyên nhân từ đâu, vì sao ông Nghị chỉ tranh chấp với ông Tuyết 36m2 chứ không phải là 73m2 (diện tích đất chênh lệch so với lời khai của ông Nghị chỉ chuyển nhượng 89m2). Ngoài ra, cũng cần phải lấy lời khai của ông Cao Phúng (Tổ trưởng dân phố) và bà Nguyễn Kim Loan (Dãy trưởng) nhằm làm rõ vì sao các bên làm hai giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong cùng ngày 10/12/2000 nhưng một giấy thì thể hiện có ông Phạm Văn Thảo, bà Lê Thị Bảy và bà Phạm Thị Ty cùng tham gia chuyển nhượng đất cho ông Phạm Ngọc Tuyết, còn một giấy thì chỉ có ông Phạm Văn Thảo chuyển nhượng đất cho ông Phạm Ngọc Tuyết trong khi toàn bộ phần đất chuyển nhượng có nguồn gốc là của vợ chồng ông Phạm Minh Nghị và bà Phạm Thị Ty

Mặt khác, bà Ty cho rằng bà Hồ Thị Lan (là vợ của ông Tuỵết) đã ký Giấy mượn đất của gia đình bà Ty. Bà Lan thừa nhận có ký tên vào Giấy mượn đất do bà Ty lập sẵn nhưng cho rằng đó là giấy mượn phần đất phía bên phải nhà bà. Do đó, cần xác minh làm rõ có việc bà Ty cho ông Tuyết, bà Lan mượn đất hay không, nếu có thì vị trí phần đất mượn nằm ở đâu, diện tích là bao nhiêu, tại sao ông Tuyết đã quản lý sử dụng đất từ năm 2000 nhưng đến năm 2005 các bên mới làm giấy mượn đất.

Ngày 07/12/2007, ông Nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 358,04m2 đất tại thửa số 503, 504 tờ bản đồ 13, phường Tăng Nhơn Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh bao gồm cả 36m2 đất tranh chấp. Thời điểm này ông Tuyết đang sử dụng đất nên cần phải xác minh lại trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nghị có đúng với quy định của pháp luật hay không.

Như vậy, cần làm rõ các mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã thu thập mới có đủ cơ sở giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật.

Bởi các lẽ trên, xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 335/2013/DSPT ngày 19/03/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 179/2011/DS-ST ngày 15/08/2011 của Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 242/2014/DS-GĐT về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án