QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 393/2014/DS-GĐT NGÀY 24/09/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 24/9/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đưcmg sự:

Nguyên đơn:

1- Cụ Nguyễn Thị Lước, sinh năm 1939; trú tại: D9/17 ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

2- Cụ Nguyễn Thị Mước, sinh năm 1932; trú tại: DI8/13 ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Nhựt, sinh năm 1966; trú tại: DI8/35 ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phó Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Bích Hoa, sinh năm 1966;

2. Anh Nguyễn Minh Hùng, sinh năm 1990;

3. Anh Nguyễn Quốc Dưong, sinh năm 1992;

4. Ông Đặng Tấn Hùng, sinh năm 1976;

Cùng trú tại: D18/35 ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Nguyên đơn cụ Nguyễn Thị Mước, cụ Nguyễn Thị Lước do ông Huỳnh Long Gươm đại diện trình bày: Phần đất có diện tích khoảng 8.483m2 thuộc thửa 171, 172, 181, 182, 19’,192, 201, 202, 26, 27 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc của gia tộc để lại cho cố Nguyễn Văn Băng (chú ruột cụ Mước và cụ Luớc). Năm 1992 do tuổi già sức yếu nên cố Nguyễn Văn Băng lập tờ hợp chung bổn tộc tương phân và ủy quyền cụ thể như sau:

- Cố Nguyễn Văn Băng được chia 3.000m2 đất thuộc thửa 171 với diện tích 1.386m2 và một phần thửa 182 với diện tích 1.695m2 (1.386 + 1.695 = 3.081m2) cố Băng đã sử dụng và bán cho người khác.

- Ông Nguyễn Văn Sang (chồng bà Nguyễn Thị Nhựt) được chia một phần thửa 201 với diện tích 188m2(trong diện tích 242m2), một phần thửa 171 với diện tích 214m2 và một phần thửa 181 với diện tích 1.300m2. Tổng cộng 1.702m2 và ông Sang đã bán phần đất của gia tộc đã chia cho ông.

- Ông Nguyễn Văn Giàu được chia thửa 191 với diện tích 1.300m2 và hưởng thêm trong phần thửa 18 với diện tích 200m2. Tổng cộng 1.500m2 hiện ông đang sử dụng.

- Cụ Nguyễn Thị Mước và cụ Nguyễn Thị Lước được chia phần đất chót còn lại với diện tích 2.483m2thuộc một phần thửa 192, 26, 27 trong phần của gia tộc đã chia (thực tế hiện nay là một phần thửa 19 với diện tích 855m2, thửa 26 với diện tích 950m2, thửa 27 với diện tích 58lm2). Tổng cộng của cụ Mước, cụ Lước là 2.386m2.

Vào năm 1993 ông Nguyễn Văn Sang là cháu ruột của cụ Mước, cụ Lước bị bệnh phổi nặng nên cụ Mước, cụ Lước múc phần đất mặt của thửa đất mà gia tộc đã phân chia lấy tiền chữa bệnh cho ông Sang. Sau đó cụ Mước, cụ Lước đi đăng ký và ông Trung cán bộ địa chính xã nói nộp giấy tương phân và giấy ủy quyền rồi Ủy ban nhân dân xã cho đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhưng không hiểu lý do gì không cho cụ Mước, cụ Lước đăng ký quyền sử dụng đất, đến năm 1997 thì ông Sang chết. Trước đó ông Sang (chồng của bà Nguyễn Thị Nhựt) có lăn tay đồng thời chia đất lại cho cụ Mước, cụ Lước.

Tháng 5/1998 phát hiện bà Nguyễn Thị Nhựt đăng ký phần đất của cụ Mước, cụ Lước với diện tích 2.483m2 (thực tế hiện nay là 2.386m2) thuộc một phần thửa 19, 26, 27 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh nên cụ Mước, cụ Lước làm đơn khiếu nại gửi Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc B giải quyết và xã đã hòa giải vào ngày 08/6/1998 nhưng không thành cụ Mước, cụ Lước không đồng ý ký biên bản. Sau đó thì xã không tiếp tục giải quyết nữa, nghĩ là đất của bà Mước, bà Lước đã được chia nến các bà không khiếu nại tiếp.

Nay bà Mước, bà Lước yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị Nhựt trả lại phần đất có diện tích 2.386m2 thuộc một phần thửa 19, 26, 27 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phổ Hồ Chí Minh cho cụ Nguyễn Thị Mước, cụ Nguyễn Thị Lước. Tuy nhiên tại Tòa án cấp sơ thẩm cụ Lước do ông Gươm làm đại diện đã rút lại yêu cầu khởi kiện đối với bà Nhựt, cụ Mước vẫn giữ nguyên yêu cầu đòi bà Nhựt trả lại diện tích đất là 1.193m2 tại các thửa nêu trên.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Nhựt trình bày. Nguồn gốc đất là của bà Phan Thị Nhồng đứng sổ bộ do chế độ cũ cấp vào ngày 16/7/1949 với diện tích 14.800mtạo lạc tại xã Vĩnh Lộc. Sau khi bà Nhồng chết con ruột là ông Nguyễn Văn Băng hưởng thừa kế và cho cha chồng bà tên Nguyễn Văn Đầm thuê hàng năm đong lúa cho ông. Đến năm 1963 chế độ cũ lấy khoảng 6.414m2 lập ấp chiến lược còn lại khoảng 8.386m2 cha chồng bà vẫn canh tác.

Năm 1976 vào tập đoàn 35 ấp 4 xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh đến năm 1984 ông Đầm chia cho anh chồng bà tên Nguyễn Văn Giàu khoảng 2.000m2. Năm 1985 cha chồng bà chết, anh chồng và chồng bà canh tác hết diện tích đất nêu trên (hiện nay thuộc các thửa 18, 19, 26, 27, còn anh bà cũng thuộc một phần thửa 19, 18). Năm 1993, ông Nguyễn Văn Băng đòi lại đất. Do đất chỉ còn khoảng 6.000m2 nên ông Băng đồng ý lấy lại 3.000m2, phần còn lại ông chia cho ông Giàu 1.500m2 vợ chồng bà 1.500m2 (có làm tờ tương phân ruộng đất) vào ngày 10/02/1993. Khi ra xã xin đăng ký, cán bộ địa chính của xã là ông Võ Ngọc Trung đến đo đạc thực tế thì thừa ra khoảng 2.438m2. Cụ Băng đã cho cụ Mước, cụ Lước phần đất này để giỗ tộc và có làm giấy ủy quyền vào ngày 18/02/1993. Hai bà chưa sử dụng ngày nào, đến ngày 06/10/1993 cụ Mước, cụ Lước cùng bán cho vợ chồng bà với số tiền là 7.000.000 đồng nhưng do pháp luật không cho mua bán đất nên các bên đã làm tờ ủy quyền có sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn Bốn là cháu ruột trong tộc và ông Nguyễn Văn Luồi là người của Ủy ban nhân dân xã.

Cuối năm 1993 Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời cho chồng bà là ông Nguyễn Văn Sang. Năm 1984 ông Sang xin phép Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc B múc đất làm ao nuôi cá đến ngày 28/12/1996 thì chồng bà chết. Bà trực tiếp sử dụng cho đến ngày 31/7/1997 thì xã thông báo đổi quyền sử dụng đất và bà đứng tên thay. Lúc này bà thấy chỉ có thửa 26 diện tích 950m2 và thửa 27 diện tích 581m2. Tổng cộng chỉ có 1.53 lmbà phát hiện thiếu đất nên đến địa chính xã báo và đăng ký bổ sung. Đến ngày 03/5/1999 cấp thửa 20 diện tích 684m2 và thửa 19 diện tích 855m2 và bà trực tiếp sử dụng cho đến nay. Qua quá trình sử dụng cụ Mước, cụ Lước có tranh chấp hai lần vào ngày 09/4/1998 Ủy ban nhân dân xã tổ chức hòa giải bác đơn và ngày 13/3/2004 khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do có tiêu cực và Công an huyện Bình Chánh đã ra thông báo số 260/CA-BC ngày 30/3/2004 của Công an huyện Bình Chánh công nhận là đúng pháp luật và Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cũng có công văn trả lời đơn khiếu nại của cụ Mước, cụ Lước vào ngày 14/4/2004.Ngày 04/4/2006 gia đình ông Huỳnh Long Gươm có mời bà đến gia đình ông bàn việc làm giấy cam kết thỏa thuận phần đất mà cố Nguyễn Văn Băng đã ủy quyền cho cụ Mước, cụ Lước là 2.483m2. Sau đó cụ Mước, cụ Lước ủy quyền lại cho chồng bà là ông Nguyễn Văn Sang thửa nào đăng ký rồi thì thôi, còn thửa nào chưa đăng ký thì giao lại cho ông Gươm. Bà trả lời là đã đăng ký và được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi, ông Gươm nói phần nào đăng ký rồi thì được toàn quyền sử dụng và có làm giấy cam kết, hiện tại phần đất trên bà không có chuyển nhượng cho ai. Nay ông Gươm (đại diện cho bà Mước, bà Lước) yêu cầu bà trả lại phần đất có diện tích 2.386m2 thuộc thửa 26, 27, 19 bà không đồng ý yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra không có yêu cầu gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Bích Hoa, Nguyễn Minh Hùng, Nguyễn Quốc Dương đã ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Nhựt và bà Nhựt có ỷ kiến như trên.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 80/2011/DSST ngày 19/7/2011, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phổ Hồ Chí Minh quyết định:

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị Lước đổi với cụ Nguyễn Thị Nhựt về việc tranh chấp quyền sử dụng đất thuộc các thửa 19, 26, 27 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

Chấp nhận một phần yêu cầu của cụ Nguyễn Thị Mước về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bà Nguyễn Thị Nhựt.

Không chấp nhận yêu cầu của cụ Nguyễn Thị Mước đòi cụ Nguyễn Thị Nhựt trả lại phần đất có diện tích là 1.53ỉm thuộc trọn thửa 26, 27 tờ bản đồ so 2 Bộ địa chính xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành pho Hồ Chỉ Minh (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Ỉ653/QSDĐ cấp ngày 31/7/1999 cho hộ bà Nguyễn Thị Nhựt).

Buộc bà Nguyễn Thị Nhựt giao trả lại quyền sử dụng phần đất thuộc thửa 19 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chảnh, thành pho Hồ Chí Minh cho bà Nguyễn Thị Mước.

Ngoài ra, tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo cho cấc đương sự.

Ngày 01/8/2011, ông Huỳnh Long Gươm đại diện của bà Mước có đơn kháng cáo cho rằng phần đất mà bà Mước, bà Lước được gia tộc chia có diện tích là 2.386m2, hiện nay gia đình bà Nhựt đang sử dụng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bà Nhựt trả lại 855m2 là thiệt thòi cho bà Mước.

Ngày 29/7/2011 bà Nhựt kháng cáo với nội dung phần đất 2.386m2 mà bà Mước kiện đòi là bà đã mua lại của cụ Mước, cụ Lước năm 1993 viêt dưới dạng giấy ủy quyền. Sau đó gia đình bà đã kê khai đăng ký và sử dụng cho tới bây giờ. Do vậy, bà không đồng ý với án sơ thẩm tuyên buộc bà trả lại cho cụ Mước 855m2, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 1608/2011/DSPT ngày 30/12/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị Lước đổi với cụ Nguyễn Thị Nhựt vể việc tranh chấp quyển sử dụng đất thuộc các thửa 19, 26, 27 tờ bản đồ so 2 tọa lạc tại ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành pho Hồ Chỉ Minh.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đổi với yêu cầu kháng cáo của cụ Nguyễn Thị Mước.

Không chấp nhận yêu cầu của cụ Nguyễn Thị Mước đòi bà Nguyễn Thị Nhựt trả lại phần đất có diện tích là 1.1932 thuộc các thửa 19 có diện tích 855m2, thửa 26, 27 có diện tích 338m2 thuộc tờ bản đồ số 2 Bộ địa chỉnh xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Gươm đại diện cho bà Mước có đơn đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm.

Tại Quyết định 45/2014/KN-DS ngày 17/6/2014, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 1608/2011/DSPT ngày 30/12/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 24/9/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Diện tích 2.483m2 đất có tranh chấp (đo thực tế là 2.386m2) thuộc các thửa 19, 26, 27 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh (thửa số 27 diện tích 58lm2, thửa số 26 diện tích 950mvà thửa số 19 diện tích 855m2).

Đất có nguồn gốc của cố Nhồng, trước ngày 30/4/1975 cố Nhồng có tổng diện tích khoảng 8.483m2 đất thuộc các thửa 171, 172, 181, 182, 19],192, 201, 202, 26, 27 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại ấp 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi cố Nhồng chết, con cố Nhồng là cố Nguyễn Văn Băng hưởng thừa kế; cố Băng cho cháu ruột là cụ Đam (chưa chồng bà Nhựt) thuê hàng năm đóng lúa cho cố Băng. Năm 1976, cụ Đầm đưa vào tập đoàn sản xuất, đến năm 1984 tập đoàn giải thể trả lại đất cho cụ Đầm và cố Băng (BL720); cụ Đầm lại tiếp tục canh tác. Năm 1985 cụ Đam chết các con của cụ Đầm là ông Giàu và ông Sang tiếp tục sử dụng. Năm 1992, cố Băng đòi lại đất, ông Giàu và ông Sang đồng ý trả một phần. Do đó, ngày 17/3/1992, cố Băng lập tờ hợp chung bổn tộc có sự đồng ý của ông Sang, ông Giàu, cụ Lước, cụ Mước với nội dung chia đất trong bổn tộc: cố Băng được chia 30 sào, ông Sang được chia 1 công 5 sào, ông Giàu được chia 1 công 5 sào, cụ Mước và cụ Lước được hưởng phần còn lại 24,83 sào.

Ngày 18/02/1993, cố Băng lập tờ ủy quyền ruộng đất với nội dung cho cụ Lước, cụ Mước được trọn quyền sử dụng diện tích đất 24,83 sào, giấy có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Bình Hưng Hòa ngày 23/02/1993 (BL19). Ngày 06/10/1993, cụ Lước làm tờ ủy quyền vĩnh viễn diện tích 24 sào đất này cho ông Sang sử dụng (giấy ủy quyền có chữ ký của cụ Lước và xác nhận của ông Luồi cán bộ ban nhân dân ấp 4). Ông Sang sử dụng đất đến ngày 25/12/1996 ông Sang chết, bà Nhựt (vợ ông Sang) tiếp tục sử dụng. Đến ngày 31/7/1997 Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa 50, 55, 27, 26 diện tích 7.354m2 cho hộ bà Nhựt. Năm 1999 bà Nhựt đăng ký sử dụng một phần thửa 20 (684m2 đất) và một phần thửa 19 (855m2); ngày 05/3/1999 Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất thuộc thửa 19 và thửa 20 này cho bà Nhựt. Ngày 11/9/2006 và ngày 05/10/2006 cụ Lước và cụ Mước khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Nhựt trả lại phần đất có diện tích 24,83 sào (2.386m2) thuộc một phần thửa 19, 26, 27, 28 tờ bản đồ số 2 cho hai cụ.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Nhựt thừa nhận nguồn gốc đất cũng như việc thỏa thuận làm giấy chia đất trong bổn tộc, giấy ủy quyền sử dụng đất của cụ Lước và cụ Mước với ông Sang (chồng bà Nhựt) nêu trên. Bà Nhựt cho rằng ngày 06/10/1993, cụ Lước và cụ Mước đã bán cho vợ chồng bà diện tích đất được chia nêu trên giá 7.000.000đ với hĩnh thức làm tờ ủy quyền vĩnh viễn; nhưng bà Nhụt không xuất trình được tài liệu chứng minh việc hai cụ chuyển nhượng diện tích đất trên cho bà và ông Sang. Tại giấy ủy quyền phần tên cụ Mước chỉ có dấu (+) mà không có chữ ký của cụ Mước; tài liệu có trong hồ sơ cũng chưa đủ căn cứ để xác định dấu (+) này do cụ Mước viết. Do đó, chưa đủ căn cứ để xác định cụ Mước có làm ủy quyền sử dụng đất cho ông Sang. Lời khai của bà Nhựt mâu thuẫn với các tài liệu kê khai đất cũng như tài liệu quản lý đất đai có trong hồ sơ vụ án: Ông Sang và bà Nhựt kê khai đất do cha mẹ là cụ Đam cho, nhưng quá trình giải quyết bà Nhựt lại khai đất mua của cụ Mước và cụ Lước. Tại sổ mục kê (BL377) có phần ghi cấp 7.354m2 để lại thửa 19 công hữu; tại danh sách duyệt diện tích đất cấp năm 1997 cho hộ bà Nhựt cũng chỉ xét 7.354m2, diện tích này của các thửa 50, 55, 26; không thể hiện việc xét cấp thửa 19.

Mặt khác, theo báo cáo số 363/TNMT-PC ngày 25/5/2011 của Phòng Tài nguyên môi trường huyện Bình Chánh và theo báo cáo số 1912/UBND ngày 29/12/2011 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh: Năm 1994 hộ bà Nhựt ông Sang đăng ký sử dụng các thửa 50, 55, 26, 27 diện tích 7.354m2 loại đất lúa màu. Đến ngày 31/7/1997 Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa trên cho hộ bà Nhựt. Năm 1999 bà Nhựt đăng ký sử dụng một phần thửa 20 (684m2 đất) và một phần thửa 19 (855m2); ngày 05/3/1999 Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nhựt. Như vậy, tờ Thông báo của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc B ngày 27/01/1997 chỉ được xác định việc địa phương thông báo cấp đất cho hộ bà Nhựt ở các thửa 50, 55, 26, 27 diện tích 7.354m2; chưa có tài liệu để xác định địa phương có thông báo việc cấp đất thửa 19, 20 cho bà Nhựt năm 1999. Năm 1998, cụ Mước khiếu nại việc cấp đất cho bà Nhựt thì giai đoạn này bà Nhựt cũng chưa kê khai xin cấp đất thửa 19. Theo Công văn số 487/UBND ngày 14/4/2006 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cũng thể hiện năm 1998 địa phưong giải quyết diện tích đất tranh chấp giữa cụ Mước và cụ Lước với bà Nhựt thuộc thửa 26, 27. Như vậy, cũng chưa có văn bản nào thể hiện việc địa phưong giải quyết tranh chấp thửa 19 trước khi bà Nhựt đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1999.

Ông Sang chết từ ngày 26/12/1996, trước khi chết ông Sang chưa đăng kỵ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đổi với thửa 19; việc Ủy ban nhân dâiy\ huyện Bình Chánh chấp nhận việc bà Nhựt tự mình thay thế ông Sang để kê khai''; đứng tên riêng một mình bà Nhựt trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm/ 1999 đối với thửa 19, 20 là chưa đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án, cụ Mước và cụ Lước có lời khai về việc trước thời gian ông Sang chết, ông Sang có lăn tay đồng ý chia lại đất cho hai cụ, Tòa án hai cấp cũng chưa thu thập tài liệu để làm rõ vấn đề này.

Ngoài ra, tài liệu có trong hồ sơ vụ án còn thể hiện cũng năm 1993 cụ Mước làm giấy ủy quyền vĩnh viễn cho ông Gươm sử dụng 1 phần thửa 19 và cụ Lước ủy quyền cho ông Gươm sử dụng 1 phần thửa 26, 27 (BL269); việc làm ủy quyền cho cả hai người (ông Sang và ông Gươm) sử dụng đất và việc các bên phân chia các phần đất được ủy quyền như thế nào, hai cụ có đứng ra phân chia hay không?

Khi chưa làm rõ các mâu thuẫn trên, mà Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của cụ Mước và Tòa án cấp phúc thẩm bác toàn bộ yêu cầu cụ Mước cũng đều là chưa đủ căn cứ.

Với phân tích trên, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ.

Bởi các lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 45/2014/KN-DS ngày 17/6/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tối cao.

- Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 1608/2011/DSPT ngày 30/12/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 80/2011/DSST ngày 19/7/2011 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là cụ Nguyễn Thị Lước, cụ Nguyễn Thị Mước với bị đơn là bà Nguyễn Thị Nhựt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 03 người.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 393/2014/DS-GĐT NGÀY 24/09/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án