QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 485/2014/DS-GĐT NGÀY 28/11/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 28/11/2014 xét xử giám đốc thẩm đối với Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 02/2011/QĐ-PT ngày 28/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn về vụ án “Tranh chấp việc thực hiện nghĩa vụ dân sự” bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, có các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội; địa chỉ, sổ 59 phố Quang Trung, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội do ông Đỗ Lê Minh đại diện theo ủy quyền.

Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn; địa chỉ, tổ 4, phường Đức Xuân, thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn do bà Lê cấm Vân đại diện theo ủy quyền.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, ông Đỗ Lê Minh đại diện Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội trình bày:

Năm 2002 Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội ký 02 hợp đồng kinh tế với Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn, cụ thể: Ngày 12/11/2002 ký hợp đồng kinh tế số 26/HĐKT về việc “Giao nhận thầu xây lắp hạng mục kiến trúc và kết cấu công trình xây dựng nhà sản xuất và công trình phụ trợ của Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn”, ngày 21/4/2003 hai bên ký tiếp hợp đồng kinh tế số 582/HĐKT về việc “Giao nhận thầu xây lắp hạng mục xây dựng nhà sản xuất và công trình phụ trợ phần hàng rào và cống thoát nước của công ty may Bắc Kạn Hai bên thỏa thuận tổng giá trị của hai hợp đồng là 4.575.122.000đ, trong quá trình thi công Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn sẽ tạm ứng cho Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội tương ứng với khối lượng thực hiện nghiệm thu giai đoạn, sau khi hợp đồng nghiệm thu tong thế công trình đưa vào sử dụng hai bến quyết toán và thanh lý hợp đồng, thời gian bảo hành 12 tháng kể từ ngày bàn giao công trình đưa vào sử dụng, chủ đầu tư giữ lại 5% giá trị thanh lý họp đồng, tổng giá trị quyết toán của cả 02 hợp đồng là 5.220.967.274đ. Sau khi quyết toán Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng theo giá trị quyết toán cho Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn nhưng Công ty TNHII may công nghiệp Bắc Kạn mới thanh toán được Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội 3.400.000.000 đồng, còn lại 1.820.967.274 đồng chưa thanh toán, ngày 16/8/2004 các bên thanh lý hợp đồng số 26/HĐKT, ngày 14/12/2004 thanh lý họp đồng số 582/HĐKT. Ngày 27/12/2003 và ngày 30/9/2004 Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn xác nhận còn nợ của Công ty cố phần xây dựng số 1 Hà Nội sổ tiền 1.820.967.274 đồng. Sau khi quyết toán và thanh lý hợp đồng Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn dã thanh toán thêm được 7 lần, cụ thể:

Ngày 31/12/2004 thanh toán 150.000.000đ; ngày 19/01/2005 thanh toán 150.000.000đ; ngày 29/6/2005 thanh toán 100.000.000đ; ngày 25/8/2005 thanh toán 100.000.000đ; ngày 29/9/2005 thanh toán 15.000.000đ; ngày 05/10/2005 thanh toán 100.000.000đ; ngày 08/12/2005 thanh toán 200.000.000đ. Tổng cộng là: 815.000.000đ

Đến ngày 08/12/2005 Công ty TNHH may công nghiệp còn nợ 1.005.967.274đ, (Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn ghi nhận bằng thư xác nhận công nợ ngày 24/7/2006). Từ sau ngày 08/12/2005 Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn không thanh toán được cho Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội thêm lần nào nữa. Sau nhiều lần đòi nợ không được Công ty cố phần xây dụng số 1 Hà Nội làm đơn khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH may công nghiệp Băc Kạn phải thanh toán số nợ gốc là 1.005.967.274đ và số tiền lãi chậm trả tính từ ngày 31.12.2003 đến ngày xét xử là 772.856.471 đồng, căn cứ theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước tại thời điểm xét xử là 9%/năm (Quyết định 28681 QĐ-NHNN ngày 29/11/2010). số tiền chịu lãi suất là số tiền chậm trả tại thời điểm quyết toán được trừ đi số tiền sau mỗi lần thanh toán.

Bị đơn: Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn do bà Lê Cẩm Vân đại diện thừa nhận năm 2002 và năm 2003 Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn ký 02 hợp đồng kinh tế với Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội về việc xây dựng nhà xưởng và các công trình phụ trợ của công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn, hai bên đã ký thanh lý họp đồng, căn cứ vào thư xác nhận công nợ ngày 24/7/2006 thì đến ngày 31/3/2006 Công ty còn nợ số tiền 1.005.967.274 đồng, Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn chấp nhận thanh toán số tiền nợ gốc cho Công ty cổ phần xây đựng số 1 Hà Nội nhưng do tình hình sản xuất, kinh doanh của Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn gặp nhiều khó khăn nên Công ty chưa có khả năng thanh toán, còn số tiền lãi Công ty không chấp nhận vì từ năm 2006 đến nay giữa hai bên không có biên bản đối chiếu công nợ nên không có căn cứ đế tính lãi.

Bà Đới Thị Thu Thủy nguyên là Giám đốc Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn trình bày: Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn được thành lập năm 2002 trong đó có hai thành viên là Công ty may Chiến Thắng và UBND tỉnh Bắc Kạn. Năm 2002 bà được Hội đồng thành viên bổ nhiệm là Giám đốc Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn đồng thời là người đại diện theo pháp luật của Công ty bà đã ký họp đồng số 26/HĐKT về việc “Giao nhận thầu xây lắp hạng mục kiên trúc và kết cấu công trình xây dựng nhà sản xuất và công trình phụ trợ của Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn” với Công ty cố phân xây dựng sô 1 Hà Nội và năm 2003 ủy quyền cho bà Lê Thị Naợc Trâm ký họp đồng số 582/HĐKT về việc “ Giao nhận thầu xây lắp hạng mục xây dựng nhà sản xuât và công trình phụ trợ phân hàng rào và cống thoát nước của công ty may Bắc Kạn Quá trình thực hiện hợp đồng giữa hai bên không có tranh châp nên bà thay mặt Công ty đã ký thanh lý hai hẹp đồng trên với Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội. Tại thời điểm thanh lý hợp đồng Công ty TNHH may công nghiệp Băc Kạn còn nợ Công ty cố phần xây dựng số 1 Hà Nội 1.820.967.274 đồng. Sau đó Công ty trả nợ dần cho Công ty cổ phần xâỵ dựng số 1 Hà Nội vê số lần, số tiền trả đúng như Công ty cô phân xây dựng sô 1 Hà Nội đã trình bày. Ngày 17/5/2005 bà được Hội dồng thành viên ra quyết định miễn nhiệm chức vụ Giám đốc Công ty TNHH mav công nghiệp Bắc Kạn. Ngày 31/3/2006 bà nghỉ hưu và không ký bất cứ văn bản nào của Công tv. Mọi công việc liên quan bà đă bàn giao lại cho người kế nhiệm trong đó có phân công nợ của Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn với Công ty cố phần xây dựng số 1 Hà Nội. 

Bà Lê Thị Ngọc Trâm trình bày: Năm 2003 được sự ủy quyền của bà Đới Thị Thu Thủy bà có ký họp đồng số 582/HĐKT với Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội. Năm 2005 với nhiệm vụ là Phó giám đốc phụ trách phòng kế toán bà đã chi đạo trả nợ cho Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội theo đúng như Công ty cố phân xây dựng trình bày, năm 2006 đế phục vụ việc kiểm toán bà dã thay mặt Công ty đề nghị Công ty cố phần xây dựng so 1 Hà Nội xác nhận nợ đến ngày 31/3/2006 theo đỏ Công ty TNĨTH may công nghiệp Bắc Kạn còn nợ Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội số tiền là 1.005.967.274đ.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2011/DS-ST ngày 20/6/2011, Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn quyết định: Buộc Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Lạn phải trả cho Công ty cố phân xây dựng số l Hà Nội số tiền gổc là 1.005.967.274đ và số tiền lãi là 701.159.696đ. Tổng là 1.707.126.970đ.

Tòa án còn quyết định về án phí và nghĩa vụ chậm thi hành án.

Ngày 13/7/2011 Công ty TNHH may công nghiệp Bắc Kạn kháng cáo.

Tại Quyết định phúc thẩm số 02/2011/QĐ-PT ngày 28/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án với lý do Công ty may Bắc Kạn kháng cáo đã được triệu tập họp lệ đến làn thứ hai vắng mặt tại phiẽn tòa phúc thẩm.

Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn có đơn đề nghị giám đốc thẩm Quyết định phúc thẩm nêu trên.

Tại Kháng nghị số 310/2014/DS-KN ngày 01/9/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thấm số 02/2011/DSST ngày 20/6/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhât trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tôi cao, ý kiến của Kiếm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Các đương sự đều thống nhất xác nhận năm 2002, Công ty cổ phần xây dựng sô 1 Hà Nội ký 02 hợp đồng kinh tế với Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Băc Kạn vê việc xây dựng nhà sản xuất và các hạng mục công trình phụ trợ. Tổng giá trị của hai hợp đồng là 4.575.122.000 đồng. Sau khi nghiệm thu, quyết toán công trình, ngày 08/12/2005, Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn còn nợ 1.005.967.274 đồng. Do Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn không trả khoản nợ nói trên nên Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn phải thanh toán số nợ gốc là 1.005.967.274 đồng và số tiền lãi chậm trả là 772.856.471 đồng.

Về tố tụng:

Tuy bà Ninh Thị Ty đã được Hội đồng thành viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn bầu làm giám đốc thay cho bà Vũ Thị Hiền (đã bị miễn nhiệm ngày 06/02/2007), nhưng theo xác nhận của Sở Kế hoạch đàu tư tỉnh Bắc Kạn tại Công văn số 397/SKHĐT-ĐKKD ngày 12/7/2011 thì thủ tục đăng ký lại đăng ký kinh doanh lần thứ 3 của Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn vẫn chưa hoàn tất nên đăng ký thuế của Cục thuế đang quản lý và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn thì bà Vũ Thị Hiền vẫn là Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn. Do đó bà Ninh Thị Ty không phải là người đại diện theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn, nên bà Ty cũng không có quyền ủy quyền cho bà Lê Thị Cẩm Vân tham gia tổ tụng. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào việc bà Ninh Thị Ty và người đại diện theo ủy quyền là bà Lê Thị Câm Vân đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt đế đình chỉ xét xử phúc thẩm là không đúng.

Về xác định quan hệ tranh châp của vụ án: Các đương sự đều thừa nhận, yêu cầu khởi kiện của Công ty cố phần xây dựng số 1 Hà Nội đổi với Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn phát sinh từ hai hợp đồng kinh tế số 26/HĐKT ngày 12/11/2002 và 582/HĐKT ngày 21/4/2003; hai hợp đồng này đều được ký kết bởi các chủ thể có tư cách pháp nhân, và đều nhằm mục đích sinh lời. Do vậy, theo hướng dẫn tại điểm b, tiểu mục 1.1, phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì tranh chấp nói trên là tranh chấp về kinh doanh thương mại, nhưng Tòa án hai cấp xác định đây là “Tranh chấp việc thực hiện nghĩa vụ dân sự” và áp dụng các quy định của pháp luật dân sự để giải quyết vụ án là không đúng.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị số 310/2014/DS-KN ngày 01/9/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thấm số 02/2011/DSST ngày 20/6/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn về vụ án “Tranh chấp việc thực hiện nghĩa vụ dân sự” giữa Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội với Công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp Bắc Kạn.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 485/2014/DS-GĐT NGÀY 28/11/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án