QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 520/2014/DS-GĐT NGÀY 17/12/2014 VỀ VỤ ÁN CHIA THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 17/12/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất” do có kháng nghị số 327/2014/KN-DS ngày 10/9/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 192/2011/DSPT ngày 22/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Bà Phan Thị Huỳnh, sinh năm 1961;

2. Bà Phan Thị Ánh, sinh năm 1967;

3. Bà Phan Thị Kiền, sinh năm 1965;

Cùng trú tại: ấp Tân Hóa A, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Ông Phan Thành Lầm, sinh năm 1953; Trú tại: ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Ngưòi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phan Thị la, sinh năm 1946; trú tại: ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

2. Bà Phan Thị Di, sinh năm 1953; trú tại: ấp Tân Hóa A, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

3.  Bà Dương Kiều Loan, sinh năm 1959; Trú tại: ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, các nguyên đơn bà Phan Thị Huỳnh, bà Phan Thị Ánh và bà Phan Thị Kiền trình bày: Vợ chồng cụ Phan Tấn Ngọc (chết ngày 04/12/2003 âm lịch), cụ Lâm Thị Bê (chết năm 2001) đều không để lại di chúc; hai cụ có 06 con là: bà Phan Thị la, bà Phan Thị Di, ông Phan Thành Lam, bà Phan Thị Huỳnh, bà Phan Thị Ánh và bà Phan Thị Kiền. Di sản của các cụ để lại gồm hai phần đất: Một phần đất diện tích 35.730m2 tọa lạc tại ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau và một phần đất diện tích khoảng 09 công tầm 03 m tọa lạc tại ấp Tân Hóa A, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau. Cả hai phần đất trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Phan Tấn Ngọc, hiện do ông Lam đang quản lý, sử dụng. Nay bà Huỳnh, bà Ánh và bà Kiền yêu cầu chia thừa kế, mỗi người Va trong số đất mà cha mẹ để lại và trừ ra 10.000m2 đất của phần đất tại ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân giao ông Lam quản lý để làm đất hương hỏa.

Bị đơn ông Phan Thành Lam và bà Dương Kiều Loan thống nhất trình bày: về phần đất 35.730m2 có nguồn gốc là của cụ Ngọc, cụ Bê để lại, trước khi cụ Ngọc chết có di chúc miệng cho ông Phan Tấn Thành. Còn phần đất tại ấp Tân Hóa A, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau diện tích 11 công tầm 03 m là do vợ chồng ông sang nhượng của ông Đỗ Huy Động chứ không phải đất của cụ Ngọc. Sở dĩ cụ Ngọc đứng tên phần đất này vì cụ Ngọc là người đúng tên chủ hộ trong sổ hộ khấu gia đình. Nên ông không đồng ý yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Phan Thị la trình bày: Trước đây cha mẹ bà có cho bà phần đất 08 công. Nay bà từ chối nhận di sản thửa kế và từ chối tham gia tố tụng.

Bà Phan Thị Di trình bày: Bà từ chối nhận di sản thừa kế và từ chối tham gia tố tụng. Chỉ yêu cầu khi chia có để lại một phần đất hương hỏa để thờ cúng to tiên.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 171/2009/DSST ngày 29/9/2009, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn, phần đất chia thừa kế tọa lạc tại ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân, thành phố Cà Mau có diện tích đo đạc thực tế là 34.266m2.

Bà Phan Thị Huỳnh đưọ'c hưởng phần đất ngang 40m X dài hết hậu (mặt hậu ngang 40m), cạnh giáp đất bà Phan Thị la.

Bà Phan Thị Ánh được hưởng phần đất diện tích như của bà Phan Thị Huỳnh tiếp giáp đất bà Huỳnh.

Bà Phan Thị Kiền được hưởng phần diện tích như của bà Phan Thị Huỳnh tiếp giáp đất bà Ánh.

Ông Phan Thành Lầm được hưởng phần diện tích như của bà Phan Thị Huỳnh. Phần còn lại dùng để làm đất hương hỏa, thờ cúng và phần mộ của ông bà giao cho ông Phan Thanh Lầm quản lý.

Ông Lam có nghĩa vụ giao các phần đất trên cho bà Huỳnh, bà Ánh và bà Kiền khi án có hiệu lực.

Bác yêu cầu của các nguyên đơn về yêu cầu chia thừa kế phần đất tọa lạc tại ấp Tân Hóa A, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau có diện tích đo đạc thực tế 13.462m2.

Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 05/10/2009, các đồng nguyên đơn là bà Phan Thị Huỳnh, bà Phan Thị Ánh, bà Phan Thị Kiền có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thâm, yêu câu chia thừa kế phần đất 13.842m2 tọa lạc tại ấp Tân Hóa A, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Ngày 13/10/2009, bị đơn ông Phan Thành Lầm và người liên quan bà Dương Kiều Loan có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thấm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 192/2011/DSPT ngày 22/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của các đồng nguyên đơn là: bà Phan Thị Huỳnh, bà Phan Thị Ánh, bà Phan Thị Kiền.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Phan Thành Lầm và người liên quan bà Dương Kiều Loan.

Buộc ông Phan Thành Lam và bà Dương Kiều Loan trả cho bà Phan Thị Huỳnh, Phan Thị Ánh và Phan Thị Kiền mỗi người một phần di sản thừa kế là 62.682.000đ. Giao 02 kỷ phần của bà Phan Thị la và bà Phan Thị Di cho ông Phan Thành Lầm quản lý.

Kể từ ngày bà Phan Thị Huỳnh, Phan Thị Ánh và Phan Thị Kiền có đơn thi hành án, nếu ông Phan Thành Lầm và bà Dương Kiều Loan chưa thanh toán xong phải chịu thêm khoản lãi theo mức lãi suất nợ cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Giao toàn bộ hai phần đất: một phần đất tọa lạc tại ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau có diện tích đo đạc thực tế là 34.266m2 và một phần đất tọa lạc tại ấp Tân Hóa A, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau có diện tích đo đạc thực tế là 13.462m2 cho ông Phan Thành Lam và bà Dương Kiều Loan quản lý sử dụng.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Phan Thị Huỳnh, bà Phan Thị Ánh và bà Phan Thị Kiền có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm vụ án dân sự nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 327/2014/KNDS ngày 10/9/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 192/2011/DSPT ngày 22/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau; đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Các nguyên đon là bà Phan Thị Huỳnh, bà Phan Thị Ánh và bà Phan Thị Kiền cho rằng cha là cụ Phan Tấn Ngọc chết ngày 04/12/2003 (AL) tức ngày 26/12/2003 (DL), mẹ là cụ Lâm Thị Bê (chết năm 2001). Trước khi chết các cụ không để lại di chúc và di sản để lại bao gồm hai phần đất: phần thứ nhất diện tích đất đo thực tế 34.266m2 tại ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân, thành phố Cà Mau và phần thứ hai diện tích đất 13.462m2 tại ấp Tân Hóa, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau (cả hai phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Ngọc).

Bị đơn là ông Phan Thành Lam cho rằng cụ Ngọc chết ngày 24/01/2004 (AL) tức ngày 14/02/2004 (DL) và cụ Bê (chết năm 2001), trước khi cụ Ngọc chết có di chúc miệng cho ông được hưỏ'ng toàn bộ di sản của các dụ để lại là phần đất 34.266m2 tại ấp Bùng Binh II, xã Hòa Tân, thành phố Cà Mau; còn diện tích đất 13.462m2 tại ấp Tân Hóa, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau là của vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của ông Đỗ Huy Động từ năm 1992, do cụ Ngọc đứng tên sổ hộ khẩu nên ông nhờ cụ Ngọc đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Theo trình bày của cụ Phan Tấn Thành (em cụ Ngọc) và ông Châu Văn Quang thì cụ Ngọc hấp hối nhưng cụ Ngọc còn minh mẫn, cụ Ngọc có di chúc miệng cho ông Lam được sử dụng toàn bộ nhà cửa, đất đai của cụ Ngọc. Ngày 16/02/2004, cụ và ông đã nhờ ông Dương Tấn Tạo viết lại di chúc miệng của cụ Ngọc ngày 19/02/2004, bản xác nhận di chúc này được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Tân.

Lời khai của các đương sự không thống nhất ngày chết của cụ Ngọc. Nhung Tòa án hai cấp không thu thập chứng cứ làm rõ ngày chết của cụ Ngọc là ngày nào đê xác định tính pháp lý của di chúc miệng. Tòa án cấp sơ thẩm đã không chấp nhận di chúc miệng, còn Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận di chúc miệng là chưa đủ căn cứ.

Đối với diện tích đất 13.462m2 ông Lầm cho rằng đã nhận chuyển nhượng của ông Động năm 1992 (giấy chuyển nhượng đất bản phô tô và không có công chứng, chứng thực theo quy định), nhưng Tòa án hai cấp chưa thu thập chứng cứ, tài liệu nguồn gốc đất trước năm 1992 có phải của ông Động không, mà chỉ căn cứ vào lời khai đã không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn là chưa đủ căn cứ.

Do đó kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị hủy cả bản án dân sự sơ thẩm và dân sự phúc thẩm nêu trên là có căn cứ châp nhận.

Vì các lẽ trên; căn cứ khoản 2 điều 291, khoản 3 điều 297, điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự 

QUYẾT ĐỊNH

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 192/2011/DSPT ngày 22/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 171/2009/DSST ngày 29/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau về vụ án “Chia thừa kế quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Phan Thị Huỳnh, bà Phan Thị Ánh và bà Phan Thị Kiền với bị đơn là ông Phan Thành Lầm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị la, bà Phan Thị Di và bà Dương Kiều Loan.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 520/2014/DS-GĐT NGÀY 17/12/2014 VỀ VỤ ÁN CHIA THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án