QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 54/2014/DS-GĐT NGÀY 24/02/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 24/02/2013 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thấm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Chi, sinh năm 1965, trú tại: nhà số 06 Lê Thị Hồng Gấm, tổ dân phố số 9, phường An Bình, thị xã Buôn Hồ, tỉnh ĐăkLăk; ủy quyền cho ông Nguyễn Huy Hiệp, trú tại: tố dân phố 3, thị trấn Krông Năng, huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Ông Đoàn Đình Quý, sinh năm 1973, trú tại: thôn Hiếu Đạt 3, phường Đạt Hiếu, thị xã Buôn Hồ, tỉnh ĐăkLăk.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Tịnh, trú tại: thôn Hiếu Đạt 3, phường Đạt Hiếu, thị xã Buôn Hồ, tỉnh ĐăkLăk.

2. Ông Nguyễn Hồng Nguyên, trú tại: nhà số 06 Lê Thị Hồng Gấm, tổ dân phố số 9, phường An Bình, thị xã Buôn Hồ, tỉnh ĐăkLăk.

Theo Quyết định kháng nghị số 557/2013/KN-DS ngày 16/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đôi với Bản án dân sự phúc thấm số 39/2011/DSPT ngày 21/3/2011 của Toà án nhân dân tỉnh ĐăkLắk.

NHẬN THẤY

Theo đcm khởi kiện để ngày 01/6/2010 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đon là bà Nguyễn Thị Kim Chi và ông Nguyễn Huy Hiệp(đại diện theo ủy quyền của bà Chi) trình bàyẤNgày 24/7/2009 ông Đoàn Đình Quý vay của bà với tông số tiên là 350.000.000đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng) chia thành 2 lần (lần một là 150.000.000đồng; lần 2 là 200.000.000 đồng) để đáo hạn ngân hàng và hứa 2 ngày sau ông Quí sẽ trả bà số tiền trên. Khi vay hai bên có lập giấy vay tiền do ông Nguyễn Hồng Nguyên (chồng bà Chi) viết giúp; sau đó ông Quý đã trả cho bà 210.000.000đồng (hai trăm mười triệu đồng); còn 140.000.000 đồng (một trăm bốn mươi triệu đồng) ông Quý không trả nên bà yêu cầu ông Quý phải trả cho bà cả tiền gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật.

Bị đơn là ông Đoàn Đình Quý và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyên Thị Tịnh trình bày.

Ông Quý vay của bà Chi 150.000.000đồng (một trăm năm mươi triệu đồng) khi vay hai bên có thỏa thuận 2 ngày sau ông Quí sẽ trả tiền cho bà, việc vay tiền có viết giấy biên nhận do ông Nguyên chồng bà Chi viết. Khoảng 16 giờ ngày 26/7/2009 vợ chồng ông đến trả tiền cho bà Chi, nhưng bà Chi không có nhà nên vợ chồng ông đã trả tiền cho ông Nguyên là chồng bà Chi nhưng không viết giấy biên nhận và bà Chi không có nhà nên ông không lấy lại được giấy biên nhận khi ông vay tiền.

Ồng Quí khai, ông không vay 200.000.000đồng (hai trăm triệu đồng) của bà Chi, nhung khi vay 150.000.000đồng trong giấy biên nhận có một khoảng giấy trống, do tin tưởng bà Chi ông không gạch chéo phần trống này nên ông Nguyên đã lợi dụng ghi thêm 200.000.000đồng vào giấy biên nhận đó, nên ông không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Hồng Nguyên trình bày:

Ông nhất trí vớí lời trình bày của bà Chi về khoản tiền ông Quý vay, ông là người viết giấy biên nhận, do ông Quý vay 2 lần trong cùng một ngày nên ông viết chung vào một giấy biên nhận, ông không tự ghi thêm số tiền 200.000.000 vào giấy biên nhận như ông Quý khai và ông cũng chưa nhận 150.000.000đồng của ông Quí trả, nên yêu cầu ông Quý trả nợ vợ chổng ông số tiền như lời khai của bà Chi.

Tại Bản án dân sự sơ thâm sổ 36/2010/DS-ST ngày 30/9/2010, Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hô, tỉnh Đăk Lăk quyêt định:

Chấp nhận yêu cầu của bà NguyễnThị Kim Chi.

Buộc ông Đoàn Đình Quý phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Kim Chi số tiền 159.880.000đồng, trong đó có 140.000.000d tiền gốc và 19.880.OOOđồng tiền lãi tính từ ngày vay 24/7/2009 đến ngày xét xử 30/9/2010 với lãi suất 1%/tháng. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thâm còn quyêt định về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ phải chịu do chậm thi hành án./T

Ngày 13/10/2010 ông Quý có đơn kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2011/DSPT ngày 21/3/2011, Toà án nhân dân tỉnh ĐăkLăk quyết định:

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm sổ 36/2010/DSST ngày 30/9/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk.

Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim Chi. Buộc ông Đoàn Đình Quý phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Kim Chi sổ tiền 159.880.000 đồng trong đó có 140.000.000 đồng tiền gốc và 19.880.000đ tiền lãi tính từ ngày vay 24/7/2009 đến ngày xét xử 30/9/2010 với lãi suất 1%/tháng.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thảm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Đoàn Đình Quý có đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thấm nêu trên.

Tại Quyết định số 557/2013/KN-DS ngày 16/12/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đổi với Bản án dân sự phúc thấm số 39/2011/DSPT ngày 21/3/2011 của Toà án nhân dân tỉnh ĐăkLắk; đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ Bản án dân sự phúc thẩm nêu và Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2010/DS-ST ngày 30/9/2010 của Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh ĐăkLăk; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh ĐăkLăk giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:

Theo nội dung giấy mượn tiền ngày 24/7/2009 thế hiện ông Quý có vay của bà Chi số tiền 150.000.000 đồng, ở dòng bên dưới có ghi “mượn thêm 200.000.000 đồng. Tổng cộng là 350.000.000 đồng”. Ông Quý thừa nhận chữ ký trong giấy mượn tiền là của ông, nhưng cho răng ông chi vay 150.000.000 đồng và đã trả số tiền trên cho ông Nguyên Hông Nguyên (là chông của bà Chi) ngày 26/7/2009, còn dòng chữ mượn thêm 200.000.000 đồng là do ông Nguyên ghi thêm vào, ông không vay khoản tiền này. Tuy nhiên, ông Quý không đưa ra được căn cứ chứng minh ông đã trả cho ông Nguyên 150.000.000 đồng.

Ông Nguyên khẳng định ông Quý vay tổng số tiền là 350.000.000 đồng trong cùng thời điểm và không thừa nhận ông Quý đã trả ỉ50.000.000 đông. Trong khi đó bà Chi lại xác định ông Quý đã trả 210.000.000 đông, còn nợ 140.000.000 đồng.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện ông Nguyên thừa nhận ông là người viết “giấy mượn tiền” ngày 24/7/2009 và hai khoản tiên vay viêt cùng một thời điểm. Tuy nhiên, tại bản kết luận giám định sô 652010/GĐ ngày 26/7/2010 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tính Đăk Lăk thê hiện chữ viêt nội dung mượn thêm 200.000.000 đông. Tông cộng là 350.000.000 đông với các chữ viết còn lại trong tài liệu có màu mực khác nhau nên chưa có cơ sở xác định hai khoản vay trên được viết cùng một thời điêm và chưa đủ căn cứ đê xác định ông Quý vay của bà Chi 200.000.000 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, ông Quỷ có nhiêu lời khai thê hiện vay tiên . của bà Chi để đáo nợ Ngân hàng. Lẽ ra, Tòa án các cap cần tiến hành thu thập chứng cứ đê làm rõ mâu thuẫn về sổ tiền mà ông Quỷ đã trả (ông Quý xác định đã trả 150.000.000 đồng, còn bà Chi lại thừa nhận ông Quý trả 210.000.000 đồng); sô tiên ông Quý vay của Ngân hàng là bao nhiêu, thời điêm nào cũng như cản tiên hành giám định màu mực giữa chữ ký của ông Quỷ tại “giấy mượn tiên” là cùng phũ hợp với màu mực vay 150 triệu hay cùng màu mực với đoạn vay 200 triệu đê có cơ sở giải quyết vụ án. Tòa án các cấp chưa làm rõ các van để nêu trên mà chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đon đê xác định ông Quý vay của bà Chi 350.000.000 đồng và buộc ỏng Quý phải trả cho bà Chi 140.000.000 đồng nợ gốc và 19.880.000 đồng tiền lãi là chưa đủ căn cứ.

Tại Phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiếm sát nhân dân tôi cao nhất trí với quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các đương sự thì ngày 24/7/2009 ông Quý có ký “Giấy mượn tiền” thể hiện ông Quý vay bà Nguyễn Thị Kim Chi 150.000.000đồng (một trăm năm mươi triệu đồng).

Tuy vậy, phía dưới giấy mượn tiền có ghi" mượn thêm 200.000.000 đồng. Tổng cộng là 350.000.000 đồng’’.

Tuy nhiên, theo lời khai của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì tổng số tiền trên là vay cùng một ngày và được viết cùng một thời diêm, nhưng tại bản kết luận giám định số 652010/GĐ ngày 26/7/2010 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Lăk thể hiện chữ viết nội dung mượn thêm 200.000.000 đồng. Tổng cộng là 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng) với các chữ viết còn lại trong tài liệu có màu mực khác nhau.

Do đó, cần tiến hành giám định màu mực giữa chữ ký của ông Quý tại “ giấy mượn tiền” là cùng với màu mực vay 150 triệu hay cùng với màu mực vay 200 triệu đồng đế có cơ sở xác định tính lô gic của số tiền vay.

Mặt khác, cũng cần làm rõ sự mâu thuẫn về số tiền trả nợ, vì theo lời khai của ông Quý thì ông đã trả bà Chi 150.000.000 đồng, còn bà Chi lại thừa nhận ông Quý đã trả bà 210.000.000đồng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ các vấn đề nêu trên, đã quyết định buộc ông Đoàn Đình Quí phải trả cho bà Nguyễn Thị Kim Chi tiền gốc và lãi là 159.880.000 đồng (một trăm năm mươi chín triệu đồng) là chưa đủ căn cứ và không đảm bảo được quyền lợi của đương sự.

Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự thấy cần thiết phải hủy Bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Vì các Lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH:

1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2011/DSPT ngày 21/3/2011 của Toà án nhân dân tỉnh ĐăkLăk và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2010/DS-ST ngày 30/9/2010, Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk về vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim Chi với bị đơn là ông Đoàn Đình Quý; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà Nguyễn Hồng Nguyên và Nguyễn Thị Tịnh.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 54/2014/DS-GĐT ngày 24/02/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English