QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 55/2014/DS-GĐT NGÀY 24/02/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHỰƠNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên toà ngày 24/02/2014 tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án “Tranh chấp họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa:

* Nguyên đơn: ông Trần Phong Linh, sinh năm 1950; trú tại 448/9C Nguyễn Tất Thành, phường 18, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh.

* Bị đơn: Bà Viên Diệu Hoa, sinh năm 1963; trú tại 76 Trương Định, phường 9, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công ty cố phần ô tô Trường Hải (trước đây là Công ty TNHH ô tô Trường Hải).

Trụ sở tại 19 Khu công nghiệp Biên Hoà 2, đường 2A, phường An Bình, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.

Theo Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 489/2013/KN-DS ngày 21/10/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tôi cao đôi với bản án dân sự phúc thâm số số 99/2013/DSPT ngày 21/01/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Đơn khởi kiện ngày 01/02/2010 yà trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Ông Trần Phong Lỉnh trình bày: Ngày 10/4/2007, ông Linh và bà Hoa ký Họp đồng mua bán nhà đất (gọi tắt là “HĐ155”) gồm nhà xưởng có diện tích sử dụng 824,64m2, diện tích xây dựng 716,40m2, trên diện tích 720m2 đất thuê thuộc thửa số 873, tờ bản đồ số 6 tại số 155 (số cũ 48/1) Quốc lộ 13, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là “Nhà đất 155”) với giá là 12.121.200.000 đồng. Tại điểm c khoản 1 Điều 1 “HĐ155” có qui định “Bên A đang lập thủ tục hợp thức hoá cấp giấy chímg nhận quyền sử dụng đất yới diện tích 751,2m2, hai bên A, B sẽ thanh quyết toán theo diện tích thực tế được cấp mới”. Bà Hoa đã trả 12.017.520.000 đồng, còn giữ lại 103.680.000 đồng. Ngày 02/3/2009, ông Linh và bà Hoa ký thêm Phụ lục hợp đồng (gọi tắt là “PL 02.3”), tại khoản 1.4 có qui định: “Phần diện tích chủ quyền họp thức hoá phát sinh thêm ngoài diện tích đã chuyên nhượng 720m2 đất nói trên, bên B sẽ thanh toán tiếp cho bên A úng với diện tích đất phát sinh sau này”. Ngày 16/10/2009, ông Linh được cấp GCNQSD đất đối với “nhà đất 155” là 1.000m2 đất ở, nhưng bà Hoa không thanh toán 280m2 đất ngoài diện tích 720m2 theo “PL02.3”. Ông Linh yêu cầu bà Hoa tiếp tục thực hiện “HĐ155” và “PL02.3”: Thanh toán 280m2 đất trị giá 364 lượng vàng; chi phí họp thức hoá chủ quyền và thuế các loại 36.018.000 đồng; chi phí đo vẽ bản đồ 15.991.500 đồng; chi phí định giá tài sản 2.500.000đồng; chi phí giám định chữ ký 5.100.000đồng và thuế sử dụng đất 02 năm (2009 - 2010) là 2.351.000 đồng. Trả Nhà nước thay cho ông lãnh số tiền thuế thu nhập cá nhân mà bà Hoa còn giữ của “HĐ155” là 103.680.520 đồng.

Bị đcrn là bà Viên Diệu Hoa trình bày: Bà Hoa là cổ đông sáng lập - Thành viên HĐQT của Công ty cổ phần ô tô Trường Hải (gọi tắt là “Cty Trường Hải”). Từ năm 2002, ông Linh đã cho Cty Trường Hải thuê “nhà đất 155”. Do ông Linh đang làm thủ tục chuyển mục đích sang đất ở, nên hai bên đã thanh lý họp đồng và để bà Hoa đại diện ký họp đồng mua bán “nhà đất 155” trị giá 12.121.200.000 đồng với ông Linh. Nội dung họp đồng thoả thuận bà Hoa mua 824,64m2 nhà xưởng trên diện tích 720m2 đất (không vi phạm quy hoạch), phần đất vi phạm quy hoạch bà Hoa được sử dụng đến khi nào Nhà nước thu hồi. Bà Hoa đã giao cho ông Linh 12.075.520.000 đồng và nhận “nhà đất 155” sử dụng cho đến nay. số tiền còn lại theo “HĐ155” là 103.680.000 đồng, hai bên thoả thuận bà Hoa giữ lại để đóng thuế chuyển quyền sử dụng đất khi sang tên. Ông Linh đã tự ý viết thêm vào điếm c khoản 1 Điều 1 của ‘HĐ155”, còn ‘PL02.3” là phụ lục họp đồng ông Linh giả mạo. Năm 2009, do Nhà nước có thay đổi về luật thuế và việc đo vẽ diện tích đất nằm ngoài lộ giới theo “HĐ155” là 751,2m2 (tăng thêm 31,2m2 đất so với diện tích đất đã chuyển nhượng) nên bà Hoa có soạn thảo và ký tên trước vào trang cuối bản dự thảo “Phụ lục họp đồng ngày 23/02/2009” (gọi tắt là “PL23.2”) gửi cho ông Linh để thoả thuận sẽ điều chỉnh những nội dung trên. Ông Linh đã tự soạn thảo 03 trang đầu Phụ lục họp đồng ghi ngày 02/3/2009 ghép với trang cuối “PL23.2” có chữ ký bà Hoa tạo thành “PL023”. Bà Hoa không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, đề nghị xem xét và thu hồi GCNSHN và QSD “nhà đất 155”của UBND quận Thủ Đức cấp ngày 16/10/2009 vì trái với “Giấy phép xây dựng” của Văn phòng kiến trúc sư trưởng thành phố cấp ngày 11/02/1998 và “Biên bản kiểm tra công trình hoàn thành”.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 75/2012/DS-ST ngày 26/7/2012, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Trần Phong Lỉnh. Buộc bà Viên Diệu Hoa tiếp tục thực hiện họp đồng mua bán nhà, đất ký ngày 10/4/2007 và Phụ lục họp đồng ký ngày 02/3/2009 đoi với nhà và đất số 155 quốc lộ 13, khu phổ 1, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh được ký kết giữa ông Linh và bà Hoa. Buộc bà Hoa phải thanh toán trả ông Linh số tiền 14.924.000.000 đồng. Buộc bà Hoa phải trả ông Linh chi phí hợp thức hoá chủ quyền và thuế các loại 36.018.000 đồng. Huỷ thoả thuận về việc bà Hoa giữ lại số tiền 103.680.520 đồng của ông Linh đế đóng thuế chuyển quyền sử dụng đất. Buộc bà Hoa trả ông Linh số tiền 103.680.520 đồng. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền, bà Viên Diệu Hoa có quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyên để thực hiện việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với nhà đất tại số 155 quôc lộ 13, khu phố 1, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy chứng nhận QSH nhà và QSDĐ ở số 1709 ngày 16/10/2009 của UBND quận Thủ Đức cấp) cho bà Viên Diệu Hoa. Các loại thuê, phí, lệ phí môi bên ông Linh, bà Hoa phải chịu theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, Toà án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 08/8/2012, bà Hoa kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên với lý do Toà án cấp sơ thẩm xét xử không khách quan.

Ngày 08/8/2012, ông Linh kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, với nội dung Toà án cấp sơ thẩm chỉ buộc bà Hoa trả ông 103.680.520 đồng là không chính xác và yêu cầu quy số tiền trên ra vàng tại thòi điểm thanh toán.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 99/2013/DSPT ngày 21/01/2013, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của ông Trân Phong Lỉnh và bà Viên Diệu Hoa. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thâm.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Viên Diệu Hoa có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại quyết định kháng nghị số 489/2013/KN-DS ngày 21/10/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 99/2013/DSPT ngày 21/01/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đe nghị Tòa Dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 75/2012/DS-ST ngày 26/7/2012 của Toà án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tạm đình chỉ thi hành bản án dân sự phúc thẩm nêu trên cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí nội dung kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Nguồn gốc “nhà đất 155” là của ông Võ Văn Thình và ông Mai Văn Bường. Giấy phép số 480/GP-ƯB ngày 21/8/1985 của UBND huyện Thủ Đức thành phố HCM cho phép ông Thìn và ông Bường được chuyển nhượng cho ông Trần Phong Linh 42m2 nhà (chưa công nhận diện tích 1 .OOOm2 đất khuôn viên) tại Quốclộ 13 phường Hiệp Bình Chánh, huyện Thủ Đức, thành phố HHCM (BL 50-52). Năm 1994, ông Linh đầu tư xây dựng Cơ sở may công nghiệp Bình Triệu (CSMCN Bình Triệu) và làm thủ tục xin thuê đất của Nhà nước diện tích đất khuôn viên trên. Ngày 19/6/1997, UBND thành phố Hồ Chí Minh (UBNDTp-HCM) ký Quyết định số 3039/QĐ-UB-QLĐT (gọi tắt là “QĐ3039”) cho phép CSMCN Bình Triệu thuê “nhà đất 155” trong thời hạn 50 năm. Ngày 18/7/1997, UBNDTp-HCM cấp GCNQSD đất số 178 cho CSMCN Bình Triệu thuê 720m2 đất (nằm trong 1.000m2 khuôn viên “nhà đất 155”. Ngày 11/02/1998, Văn phòng Kiến trúc Sư trưởng thành phố HCM cấp Giấy phép xây dựng số 048/GPXD (gọi tắt là “GPXD048”) cho phép xây dựng nhà, xưởng. Ngày 23/12/2008, UBNDTp-HCM ký Quyết định số 5539/QĐ-UBND thu hồi huỷ bỏ “QĐ3039”, yêu cầu UBND quận Thủ Đức xem xét để cấp GCNQSD đất cho ông Linh (BL 51-62, 99, 141, 421-427).

Ngày 15/5/2002, ông Linh ký hợp đồng cho Cty Trường Hải thuê lại “nhà đất 155” làm Văn phòng và xưởng sửa chữa ô tô thời hạn 05 năm (trong quá trình sử dụng “nhà đất 155”, Cty Trường Hải đã mua thêm của ông Linh một số căn nhà xung quanh tại các số 153, 153A, 145/2, 145/2A quốc lộ 13). Do ông Linh làm thủ tục xin chuyển đổi mục đích sử dụng “nhà đất 155” từ đất thuê sang đất ở, nên các bên đã thanh lý hợp đồng ký ngày 15/5/2002, thống nhất để ông Trần Phong Linh ký và thực hiện Hợp đồng mua bán nhà đất “HĐ155” với bà Viên Diệu Hoa. Thực hiện “HĐ155”, bà Hoa đã thanh toán cho ông Linh 12.075.520.000 đồng và nhận bàn giao “nhà đất 155” sử dụng từ năm 2007 cho đến nay (BL 34).

Ngày 16/10/2009, UBND quận Thủ Đức cấp Giấy chứng nhận QSHN ở và QSD đất ở số 797622681201709 diện tích sàn xây dựng 852m2 (trong đó có 280,1 m2 không được công nhận); diện tích đất 1.000m2 (trong đó có có 248,8m2 đất nằm trong ranh lộ giới nhưng được cấp quyền sử dụng do có giấy tờ) tại số 155 Quốc lộ 13 chủ sử dụng là ông Trần Phong Linh (BL 109,111).

Ngoài những nội dung được ông Linh và bà Hoa công nhận (về thời điểm ký kết hợp đồng, giá trị thanh toán, bàn giao và quá trình sử dụng nhà đất). Ông Linh cho rằng bà Hoa đã không thực hiện đúng cam kết theo điểm c khoản 1 Điều 1 “HĐ155” có nội dung “Bên A đang lập thủ tục họp thức hoá cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 751, 2m2, hai bên A, B sẽ thanh quyết toán theo diện tích thực tế được cấp mới” và tại khoản 1.4 “PL02.3” qui định: “Phần diện tích chủ quyền họp thức hoá phát sinh thêm ngoài diện tích đã chuyển nhượng 720m2 đất nói trên, bên B sẽ thanh toán tiếp cho bên A ứng với diện tích đất phát sinh sau này”. Bà Hoa không công nhận nội dung điểm c khoản 1 Điều 1 “HĐ155” và cho rằng ông Linh tự viết thêm vào “HĐ155”. Bà Hoa khẳng định hai bên chưa bao giờ cùng nhau ký thêm phụ lục họp đồng, ông linh đã tạo lập giả mạo “PL02.3” nói hên.

Theo qui định của pháp luật, bất cứ thoả thuận thay đổi, bổ sung nào về nội dung của họp đồng phát sinh sau thời điểm họp đồng đã được ký kết, đều phải được các bên chủ thể tham gia xác nhận bằng hình thức ký tên (đóng dấu) của mình vào

phần cuối nội dung mới thoả thuận trên họp đồng hoặc cùng nhau xác lập một phụ lục họp đồng mới.

Xem xét toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc tranh chấp, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thấy rằng:

Thứ nhất, không có việc hai bên thoả thuận nội dung “Bên A đang lập thủ tục hợp thức hoá cấp giấy chứng nhận qnyền sử dụng đất với diện tích 751,2m2, hai bên A, B sẽ thanh quyết toán theo diện tích thực tế được cấp mới” tại điểm c khoản 1 Điều 1 “HĐ155” vì các căn cứ sau:

- “HĐ155” được lập thành văn bản, toàn bộ chữ viết trong họp đồng là chữ đánh bàng máy vi tính. Riêng nội dung “Bên A đang lập thủ tục... diện tích thực tê được cấp mới ” là chữ viết tay của ông Linh bổ sung thêm vào sau điểm c khoản 1 Điều 1 hợp đồng sau thời điểm hai bên đã ký hợp đồng ngày 10/4/2007. Phần dưới nội dung viết thêm này không có chữ ký xác nhận của bà Hoa (BL 32).

- Cùng trong một điều khoản “HĐ155” nội dung "..Tổng diện tích sử dụng 824,64m2, tổng diện tích xây dựng 716,40m2, trên thửa đất số 973 diện tích 720m, phần diện tích vi phạm quy hoạch bà Hoa được sử dụng có thời hạn, khi nào Nhà nước giải tỏa thì phải chấp hành tháo dỡ” mâu thuẫn với nội dung “Bên A đang lập thủ tục hợp thức hoá cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 75 l,2m2, hai bên A, B sẽ thanh quyết toán theo diện tích thực tế được cấp mới” . Tại thời điểm ký kết “HĐ155” hai bên đều biết thửa đất 973 chỉ có 720m2 không vi phạm qui hoạch, do đó hai bên đã thoả thuận ghi rõ Long họp đồng là phần diện tích vi phạm quy hoạch bà Hoa được sử dụng đến khi nào Nhà nước giải tỏa thì phải chấp hành tháo dỡ. Giả sử trong trường họp hai bên có bổ sung nội dung nêu trên làm (thay đổi quyền lợi nghĩa vụ của bà Hoa và ông Linh) thì bắt buộc hai bên phải huỷ bỏ (gạch bỏ nội dung ngay trên bản họp đồng) nội dung đã thoả thuận khi ký kết “HĐ155” (BL 34).

Thứ hai, không có cơ sở xác định ông Linh và bà Hoa ký kết Phụ lục hợp đồng ngày 02/3/2009 (“PL02.3”) vì nhũng căn cứ sau:

- “HĐ155” được hai bên ký giáp lai từng trang, nhưng “PL02.3” lại không được các bên ký giáp lai từng trang và hình thức văn bản (lề, mác, phông chữ, độ đậm nhạt của chữ..) của các trang không đồng nhất. Do đó, việc bà Hoa cho rằng ông Linh đã sử dụng trang cuối của bản dự thảo “Phụ lục họp đồng” của bà Hoa đề ngày 23/02/2009 (có chữ ký của bà Hoa) gửi cho ông Linh tham khảo, rồi lắp ghép với 3 trang đầu (1, 2 và 3) do ông Linh soạn thảo nội dung và ghi ngày 02/3/2009 để tạo thành “PL02.3” là có cơ sở (BL 27, 28).

- Có sự không logic và mâu thuẫn trong suy nghĩ và hành động của các bên đương sự liên quan đến nội dung: “Phần diện tích chủ quyển hợp thức hoá phát sinh thêm ngoài diện tích đã chuyển nhượng 720m2 đất nói trên, bên B sẽ thanh toán tiếp cho bên A ứng với diện tích đất phát sinh sau này ” tại khoản 1.4 “PL02.3” Cụ thể:

Ông Linh khẳng định hai bên đã thoả thuận bổ sung nội dung “.. .Hai bên A, B sẽ thanh quyết toán theo diện tích thực tế được cấp mới.. ” tại điểm c khoản 1 Điều 1 “HĐ155” ngày 04/10/2007, thì vì sao sau gần 02 năm ông Linh và bà Hoa phải tiếp tục thoả thuận ký thêm “PL02.3” ngày 02/3/2009 vẫn chỉ cùng một nội dung là bên B phải thanh toán cho bên A diện tích thực tế phát sinh ngoài 720m2 đất đã chuyển nhượng theo “HĐ155”.

Ông Linh khẳng định “PL02.3” đã được hai bên ký kết vào ngày 02/3/2009, thì vì sao sau ngày 02/3/2009 ông Linh vẫn tiếp tục trao đổi thoả thuận nội dung và việc ký kết phụ lục của “HĐ155”. Cụ thể:

Nội dung thư tay và Phụ lục họp đồng ghi ngày 12-3-2009 “...Phần phụ lục hợp đồng mặc dù chúng ta đã thảo luận và trao đối với nhau nhiêu lân nhưng chưa đi đến một thoả thuận cuối cùng... ” của ông Linh gửi bà Hoa đề nghị xem xét cho ý kiến;

Đặc biệt, ngày 23/10/2009 do ông Linh còn soạn thảo điểm 1.5 của Phụ lục hợp đồng có nội dung: “..Hai bên thống nhất nếu diện tích nhà đất thực tế hơn diện tích đã chuyên nhượng (720m2) thì phần diện tích chênh lệch này bên B sẽ thanh toán cho bên A . Phía trên Phụ lục này, ông Linh tự viết nội dung “Kg:Bà Hoa bản dự thảo phụ lục họp đồng mua bán nhà 155 Quốc lộ 13. Đe nghị bà tham khảo và cho một cuộc hẹn gặp trực tiếp giải quyết dứt điểm việc mua bán nhà, đấttrên... ” (BL22, 330-332).

Với phân tích trên đây, có căn cứ xác định “HĐ155” tuy chưa tuân thủ quy định về hình thức (không có công chứng chứng thực), nhưng các bên đã giao tiền, nhận “nhà đất 155” và bên mua đã sửa chữa, xây dựng nhà xưởng cho đến nay các bên không có tranh chấp gì và đồng ý tiếp tục thực hiện họp đồng này, nên Toà án các cấp công nhận việc chuyển nhượng nhà, đất này và buộc bà Hoa trả cho ông Linh 103.680.520 đồng là có căn cứ. Tuy nhiên, theo bản đồ hiện trạng vị trí ngày 12/02/2007 và GCNQSH nhà ở và QSDĐ số 1709 xác định có 248,8m2 đất nằm trong qui hoạch. Diện tích này đã được hai bên thoả thuận rõ trong ‘HĐ155” là bà Hoa được quyền sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi. Việc Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa xem xét việc ông Linh được cấp Giấy chứng nhận QSD 248,8m2 đất ở nằm trong quy hoạch lộ giới là đúng hay không đúng quy định của pháp luật, cũng như không xem xét đến thoả thuận nói trên của các bên là chưa giải quyết toàn diện vụ án.

Mặt khác, việc Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm áp dụng Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1995 để giải quyết việc chuyển nhượng quyền sử dụng 280m2 đất giữa ông Linh và bà Hoa ngày 02/3/2009 là không đúng. Theo Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003 qui định họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ có hiệu lực khi được đăng ký tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó, việc Toà án sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Linh và bà Hoa theo nội dung “PL02.3” không có giá trị pháp lý, từ đó buộc bà Hoa phải thanh toán giá trị quyền sử dụng 280m2 đất cho ông Linh là không có căn cứ.

Bởi các lẽ trên,Căn cứ khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 89/2013/KN-DS ngày 21/10/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 99/2013/DSPT ngày 21/01/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, hủy bản án dân sự sơ thẩm số 75/2012/DS- ST ngày 26/7/2012, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhuợng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Trần Phong Linh với bị đơn là bà Viên Diệu Hoa và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 55/2014/DS-GĐT ngày 24/02/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English