QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 59/2014/DS-GĐT NGÀY 25/02/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 25/02/2014 tại trụ sở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DSPT ngày 22/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum về “Tranh chấp quyền sử dụng đấf\ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, có các đương sự là:

Nguyên đơn:

1. Cụ Nguyễn Thị Lượng (tức Long), sinh năm 1920; trú tại 15 Hồ Tùng Mậu, thành phố Kon Turn, tỉnh Kon Tum.

2. Cụ Nguyễn Thị Thông, sinh năm 1937; trú tại 21 Đào Duy Từ, thành phố Kon Turn, tỉnh Kon Tum.

Bị đơn: Ông Nguyễn Đình Khoa, sinh năm 1955; trú tại 25A Phan Trinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

Những người có quyền lợi, nghiã vuụ liên quan:

1. Bà Lê Thị Trà, sinh năm 1961; trú tại 25A Phan Chu Trinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

2. Ông Nguyễn Đức Khải, sinh năm 1953; trú tại 36 Phan Chu Trinh, phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

3. Cụ Nguyễn Văn Mẹo, sinh năm 1939; trú tại 23 Phan Chu Trinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

4. Ông Nguyễn Thành Khứ, sinh năm 1971; trú tại 25 Phan Chu Trinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum

5. Bà Nguyễn Thị Khả, sinh năm 1951; trú tại 34 Trần Văn Hai, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

6. Bà Nguyễn Thị Khôi, sinh năm 1958; trú tại 54 Phan Chu Trinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

7.Ông Nguyễn Như Khuê, sinh năm 1960; trú tại 19 Phan Chu Trinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

8. Ông Nguyễn Thành Khấn, sinh năm 1963; trú tại 25 Phan Chu Trinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

9. Bà Nguyễn Thị Khương, sinh năm 1966; trú tại 32 Trần Văn Hai, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

10. Bà Nguyễn Thị Kháng, sinh năm 1968; trú tại 30 Trần Văn Hai, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

11. Cụ Nguyễn Thị Nhĩ, sinh năm 1932; trú tại 25 A Phan Chu Trinh; thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum;

NHẬN THẤY

Tại đom khởi kiện ngày 30/4/2010 và trong quả trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là cụ Nguyễn Thị Thông và cụ Nguyễn Thị Lượng trình bày:

Năm 1930 cha mẹ các cụ là cố Nguyễn Lượng (chết 1945) và cố Lê Thị Bảy (chết năm 1948) khai hoang đất và dựng nhà ở (hiện nay là số 25 Phan Chu Trinh, thành phô Kon Turn, tỉnh Kon Turn), năm 1937 được chính quyên chê độ cũ cấp quyên sở hữu diện tích 1415m2 đất. Hai cố có 5 người con là cụ Nguyễn Thị Lượng (tức Long), cụ Nguyễn Thị Báu, cụ Nguyễn Thị Thông, cụ Nguyễn Văn Mẹo và cụ Nguyễn Lành, cố Lượng chết năm 1945, cố Bẩy chết năm 1948 đều không để lại di chúc.

Năm 1970, cụ Lượng tổ chức họp chia đất của cha mẹ (không lập văn bản) chia cho cụ Nguyễn Văn Mẹo 12m đất mặt tiền; diện tích đất còn lại và nhà từ đường tạm giao cho cụ Lành sử dụng, khi nào anh em có nhu cầu sử dụng thì phân chia; tuy nhiên, năm 1996 cụ Lành bị tai biến mất trí đến tháng 5/1999 thì chết.

Ngày 20/10/2000, cụ Lượng, cụ Nhĩ, cụ Báu, cụ Thông cùng hai con cụ Lành thống nhất chia đất như sau: Cụ Nguyễn Thị Nhĩ (vợ cụ Lành) được 6m mặt tiền; ông Nguyễn Thành Khấn (con cụ Lành) được nhận 10m mặt tiền; ông Nguyễn Thành Khứ (con cụ Lành) được nhận 9,4m mặt tiền; hai cụ (Thông, Lượng) được nhận 9,4m mặt tiền.

Ngày 17/6/2002, ông Khoa được ủy ban nhân dân thị xã Kon Turn (cũ) cấp giây chứng nhận quyên sử dụng diện tích 1.402,65m2 đất thuộc thửa 43, tờ bản đồ số 71, trong đó có 298m2 đật là của các cụ được chia năm 2000. Ngày 01/02/2010, Ủy ban nhân dân thành phố Kon Tum thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã câp cho ông Khoa ngày 17/6/2002 vì thời điểm cấp giấy chứng nhận đât đang có tranh chấp. Năm 2009, ông Khoa xây dựng nhà không phép bị lập biên bản, phạt hành chính. Nay nguyên đơn yêu cầu ông Khoa dỡ nhà trả đất.

Bị đơn là ông Nguyễn Đình Khoa trình bày: Cha ông là cụ Nguyễn Lành (chết năm 1999); năm 1997 cha ông cho ông thửa đât kích thước 9m X 63m có tứ cận: Đông giáp đất ông Lành; Tây giáp đất ông Trần Gần; Nam giáp đất bà Mai Lan và ông Nguyên Sang; Băc giáp đường Phan Chu Trinh. Năm 1998, ông làm nhà; năm 2002 ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện đòi đất của các nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Trà (vợ ông Khoa) thống nhất trình bày và yêu cầu của ông Khoa

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các con cụ Lành trình bày: đất tranh chấp là của cố nội cho cụ Lành, cụ Lành cho ông Khoa nên không có ý kiến gì và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Nguyễn Thị Nhĩ (vợ cụ Lành) cho rằng tranh chấp là của cha mẹ cụ Lành cho vợ chồng cụ. Năm. 2000, vợ chồng cụ Thông đưa cụ giấy nói cụ ký để đi làm sổ đỏ nên cụ ký, nay cụ đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Nguyễn Văn Mẹo trình bày: đất tranh chấp là tài sản của cha mẹ cụ; cha mẹ cụ chết không để lại di chúc, năm 1970 cụ được anh em thống nhất chia cho 12m đất mặt đường. Năm 2000, cụ Thông, cụ Lượng và vợ con cụ Lành nhận chung 25,4m mặt đường; còn lại 9 m mặt đường chia cho cụ Thông và cụ Lượng. Tuy nhiên, ông Khoa chiếm cả đất của các cụ là không đúng nên cụ yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2010/DS-ST ngày 15/9/2010, Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum quyết định:

Buộc ông Nguyên Đình Khoa và bà Lê Thị Trà phải tháo dỡ công trình xây dựng trái phép và trả lại phần diện tích đất 298m2 tại tờ bản đồ số 71, thửa đất sổ 43; địa chỉ thửa đất 25A Phan Chu Trinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, lô đất có tứ cận như sau:

Đông giáp thửa số 44 dài 33,2m;

Tây giáp đất ông Quí dài 33,2m;

Nam giáp đất ông Khoa dài 9m;

Bắc giáp đường Phan Chu Trinh dài 9m

Tạm giao cho cụ Nguyên Thị Lượng (Long) và cụ Nguyên Thị Thông quản lý sử dụng lô đất trên.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DSPT ngày 22/02/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Turn quyết định, sửa án sơ thẩm như sau:

Buộc vợ chồng ông Khoa tháo dỡ công trình xây dựng, trả lại diện tích 297m2 đất tại tờ bản đồ sổ 71, thửa đất sổ 43 tại số 25A Phan Chu Trinh, thành phố Kon Tum, lô đất có giới cận như sau:

Đông giáp thửa 44 dài 33m;

Tây giáp ông Quí dài 33m;

Nam giáp đất ông Khoa dài 9m;

Bắc giáp đường Phan Chu Trinh dài 9m

Tạm giao cho cụ Nguyên Thị Lượng (Long) và cụ Nguyên Thị Thông quản lý sử dụng lô đất trên.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thấm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 04/4/2011 vợ chồng ông Khoa, bà Trà có đơn đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét giám đốc thẩm bản án phúc thấm nêu trên.

Tại quyết định số 299/2013/KN-DS ngày 25/7/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 14/2010/DS-ST ngày 15/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Các đương sự đều thừa nhận 297m2 đất tranh chấp (một phần trong diện tích đất ông Khoa đang quản lý sử dụng) có nguồn gốc do vợ chồng cố Nguyễn Lượng, cố Lê Thị Bảy (ông, bà nội của ông Khoa) tạo lập. Năm 1945, cố Lượng chết, năm 1948 cố Bảy chết đều không để lại di chúc. Sau khi hai cố chết, cụ Lành (cha của ông Khoa) quản lý sử dụng đất của hai cố. Ngày 01/4/1964, cụ Lành nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Hậu 2.100m2 đất (liền kề với đất của hai cố mà cụ Lành đang sử dụng), việc nhận chuyến nhượng của cụ Lành được chính quyền xã Châu Thành (chế độ cũ) chứng thực.

Các nguyên đơn cho rằng năm 1970, các con của vợ chồng cố Lượng, cố Bảy thống nhất giao cho cụ Mẹo 12m đất mặt đường, phần đất còn lại vẫn do cụ Lành quản lý sử dụng. Ngoài ra, các nguyên đơn còn xuất trình Biên bản phiên họp phân định tài sản thừa kế ngày 27/9/2000. Xem xét biên bản trên thấy rằng biên bản ghi lập tại nhà số 25 Hồ Tùng Mậu, phường Thắng Lợi ngày 27/9/2000, nhưng chính quyền địa phương lại xác nhận vào ngày 26/10/2000 đồng thòi xác nhận các đương sự “thong nhất kỷ tên và điểm chỉ trực tiếp tại trụ sở ủy ban nhân dân phường”. Như vậy, có sự mâu thuẫn về thời gian, địa điểm lập văn bản. Hơn nữa, văn bản trên không có sự tham gia của cụ Mẹo và không có đủ những người thừa kế của cụ Lành (trong đó không có ông Khoa) và ông Khoa không thừa nhận có việc thỏa thuận phân chia vào năm 1970 và năm 2000. Do đó, văn bản trên không có giá trị pháp lý làm căn cứ chia tài sản chung theo qui định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Trên thực tế, ngày 22/11/1980, cụ Lành đăng ký kê khai 1.067,5m2 đất thổ cư và 2.130m2 đất vườn, được ủy ban nhân dân phường Thắng Lợi xác nhận. Ngày 15/11/1997 vợ chồng cụ Lành, cụ Nhĩ chia đất cho ông Khoa được ủy ban nhân dân phường Thắng Lợi xác nhận. Sau khi được chia đất, ông Khoa xây dựng nhà ở, đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17/6/2002 (tuy nhiên, sau đó ngày 01/02/2010 bị thu hồi). Như vậy, một phần đất ông Khoa đang sử dụng tuy có nguồn gốc do vợ chồng cố Lượng, cố Bảy tạo lập, nhưng vợ chồng cụ Lành (sau đó la vợ chồng ông Khoa) quản lý sử dụng liên tục từ năm 1951 đến nay. Quá trình quản lý sử dụng, cụ Lành đăng ký kê khai thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, chia đất cho ông Khoa và ông Khoa xây dựng nhà ở, kê khai và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng những người thừa kế của vợ chồng cố Lượng, cố Bảy không tranh chấp phản đối.

Do đó, trong trường họp này, cần bác yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thấm căn cứ lời khai của các nguyên đơn, lời khai của cụ Mẹo và Biên bản phiên họp phân định tài sản thừa kê đề ngày 27/9/2000 xác định đất tranh chấp các thừa kế của vợ chồng cố Nguyễn Lượng đã họp thống nhất chia cho cụ Lượng, cụ Thông và cụ Báu; từ đó buộc vợ chồng ông Khoa dỡ nhà, trả đât là không có căn cứ. Hơn nữa, khi buộc vợ chông ông Khoa trả đất Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xác định người có quyền sử dụng diện tích đất này mà tạm giao cho cụ Lượng, cụ Thông quản lý cũng là không đúng.                                

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 và khoản 4 Điều 291, Điều 296, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận kháng nghị số 299/2013/KN-DS ngàỵ 25/7/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DSPT ngày 22/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Turn.

Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DSPT ngày 22/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum và hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 14/2010/DS-ST ngày 15/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Turn, tỉnh Kon Turn về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là cụ Nguyễn Thị Lượng, cụ Nguyễn Thị Thông với bị đơn là ông Nguyễn Đình Khoa; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (gồm 11 người).

 

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 59/2014/DS-GĐT ngày 25/02/2014 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English