QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 64/2014/DS-GĐT NGÀY 27/02/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 27/02/2014 tại trụ sở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 12/2011/DS-PT ngày 03/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, có các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Trần Tiến Đức, sinh năm 1959 và Nguyễn Thị Hạnh, sinh năm I960; ông Đức, bà Hạnh cùng trú tại: Vi Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

2. Đinh Chí Đức, sinh năm 1960 và Võ Thị Khánh Vân, sinh năm 1963; ông Chí Đức, bà Khánh Vân cùng trú tại: 50/3 Hoàng Văn Thụ, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; ủy quyền cho ông Trần Tiến Đức, bà Nguyễn Thị Hạnh tham gia tố tụng.

Bị đơn: Trần Văn Thới, sinh năm 1942 và vợ là Tràn Thị Phúc, sinh năm 1948; ông Thới, bà Phúc cùng trú tại khu phố 4, ấp Hải Sơn, xã Phước Hòa, huyện Tân Thành, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; ủy quyền cho anh Trần Anh Dũng sinh năm 1985, trú tại 486 đường Thống Nhất kéo dài, phường 8, thành phố Vũng tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu tham gia tố tụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Hữu Bắc, sinh năm 1969 và vợ là Lương Thị Lan, sinh năm 1970; ông Bắc, bà Lan cùng trú tại 218 Bình Giã, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

2. Trần Văn Tá, sinh năm 1963 và vợ là Lâm Thị Thủy, sinh năm 1967; ông Tá, bà Thủy cùng trú tại hẻm 850 đường 30/4, phường 11, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

3. Trần Hữu Dũng, sinh năm 1967; Trần Thanh Hoài, sinh năm 1969; Trần Thị Lệ Thu, sinh năm 1971; Trần Quốc Tuấn, sinh năm 1976; Trần Nhân Thế, sinh năm 1978; Trần Thị Tuyết Trinh, sinh năm 1981; Trần Quốc Chính, sinh năm 1983; Trần Thị Kim Duyên, sinh năm 1986 và Trần Thị Kim Dung, sinh năm 1989 đều là các con ông Thói, bà Phúc và cùng trú tại tổ 19, khu phố 4, ấp Hải Son, xã Phước Hòa, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện ngày 20/4/2009 và quá trình tố tụng, nguyên đơn đồng thời là người đại diện cho đồng nguyên đơn ông Đinh Chí Đức, bà Võ Thị Khánh Vân là bà Nguyễn Thị Hạnh trình bày:

Ngày 30/11/2001, bà Hạnh và bà Vân chung tiền mua 2,5 công đất (2.500m2) đất trong 4.900m2 đất tại thửa số 62, tờ bản đồ 37 tại An Phước, phường 11, thành phố Vũng Tàu của vợ chồng ông Trần Văn Thới và bà Trần Thị Phúc với giá 25 cây vàng (10 cây vàng/công). Do ông Thới chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông Thói đồng ý bớt cho bên mua 01 cây vàng để sau này làm thủ tục sang tên. Bên mua đã đã cọc 15 cây vàng, còn thiếu 9 cây. Ngày 30/7/2004, ông Thới yêu cầu bên mua thanh toán nốt tiền nên bà Hạnh trả tiếp 09 cây vàng. Các bà yêu cầu ông Thới đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Thới cho biết ông Nguyễn Hữu Bắc cầm để tách thửa (ông Bắc là người nhận chuyển nhượng 2400m2). Do đó, các bà không biết diện tích đất trong Giấy chứng nhận là bao nhiêu. Ông Thới yêu cầu bên mua thanh toán thêm 03 cây nữa vì giá đất lên và thủ tục làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quá lâu nên ngày 01/8/2004 bà Hạnh đồng ý thanh toán thêm cho ông Thới 03 cây vàng. Tổng cộng ông Thới đã nhận của bà Vân, bà Hạnh 27 cây vàng và đã giao đất cho bà Hạnh sử dụng sau khi nhận đủ vàng. Ngày 01/8/2004, ông Thói, bà Phúc đã làm Họp đồng chuyển nhượng đất cho bà Hạnh theo mẫu quy định và hai bên có làm thủ tục sang tên nhưng tại thời điểm này đất nông nghiệp không được tách thửa nên không làm được.

Qua tìm hiểu bà Hạnh được biết ngày 03/4/2002, ông Thới chuyển nhượng cho ông Bắc 2400m2 đất nhưng sau đó ông Bắc trả lại 400m2 đất cho ông Thới nên bà Hạnh đã mua lại 2000m2 đất của ông Bắc với giá 80 cây vàng, mua của anh Trần Hữu Dũng (con của ông Thới, bà Phúc) 400m2 với giá 10 cây vàng. Sau đó, được sự đồng ý của vợ chồng ông Thới, bà Phúc, ông Bắc giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Hạnh vào năm 2005. Lúc này bà Hạnh mới biêt diện tích trong Giây chứng nhận quyên sử dụng đât câp cho ông Thới, bà Phúc là 4.293m2 đất (thiếu 207m2), thực tế bà phải trả tiền mua của vợ chồng ông Thới, bà Phúc, ông Bắc, anh Dũng 4900m2. Tuy nhiên, bà Hạnh chấp nhận thiệt thòi đồng ý nhận diện đất mà ông Thới giao có các tứ cận cụ thế, bà Hạnh đã san ủi cát, thu hoạch hoa màu không ai cản trở.

Sau đó, bà Hanh yêu cầu ông Thói ký các giấy tờ làm thủ tục sang tên thì ông Thới không chịu ký mà yêu cầu bà phải cắt lại cho ông Thới một số diện tích. Nay bà Hạnh đề nghị Tòa án công nhận diện tích bà đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Thói, bà Phúc và ông Bắc (thực tế đã tách thành 47 thửa). Đối với diện tích thiếu 207m2 bà Hạnh yêu cầu vợ chồng ông Thói phải thanh toán cho bà 310.500.000d (giá 1.500.000đ/m2).

Ngoài ra, bà đồng ý hỗ trợ cho bà Lâm Thị Thủy và ông Trần Văn Tá (người thuê đất của bà) 10.000.000d tiền di dời. Đối với quan hệ hợp đồng chuyển nhượng 400m2 với anh Dũng bà không yêu cầu giải quyết tại vụ án này.

Bà Võ Thị Khánh Vân trình bày: Bà thống nhất với bà Hạnh về việc bà và bà Hanh mua chung 2500m2 đất của vợ chồng ông Thói. Chính bà là người trả 15 cây vàng cho ông Thói, những lần thanh toán sau đều do vợ chồng bà Hạnh trả. Vì thủ tục làm giấy tờ quá lâu nên bà Vân không mua nữa mà đê cho vợ chồng bà Hanh mua toàn bộ diện tích đất trên. Bà Vân đề nghị Tòa án công nhận toàn bộ diện tích đất cho bà Hạnh.

Bị đơn là ông Trần Văn Thới và anh Trần Hữu Dũng đại diện trình bày:

Năm 1989, ông Thới mua của ông Lê Văn Kiên 4.293m2 đất, ông Thới sử dụng đến năm 2000 bán cho ông Bắc 2400m2 (có một căn nhà lợp mái tôn trên đất). Nhưng do ông Bắc không giao đủ vàng, giá đât lên, ông Băc trả lại cho ông Thới 400m2, thực tế ông Bắc chỉ mua 2000m2 với giá 20 cây vàng. Do chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông Thới nhờ ông Bắc làm luôn thủ tục và ông Thới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 04/8/2003. Sau đó, ông Bắc bán lại 2000m2 đất cho bà Hạnh, ông Thới không có ý kiến gì vì việc mua bán giữa ông và ông Bắc đã xong.

Ngày 30/11/2001, ông Thới bán cho bà Khánh Vân 1,5 công (1500m2) với giá 15 lượng vàng, ông Thới đã nhận 15 cây vàng, việc mua bán chỉ làm giây tay.

Năm 2004 (sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 4293m2) ông Thới bán cho bà Hạnh 600m2 với giá 12 cây và bà Hạnh đã giao đủ vàng vào ngày 01/8/2004. Bà Hạnh cầm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tự ý san lấp đất. Bà Hạnh yêu cầu ông làm thủ tục sang tên cho bà Hạnh toàn bộ diện tích đất nêu trên ông không đồng ý vì thực tế ông chỉ chuyển nhượng cho bà Hạnh, bà Vân, ông Bắc 4100m2, ông vẫn còn 193m2 đất. Ông chỉ đồng ý giao đất cho bà Hạnh, bà Vân, ông Bắc theo diện tích đã mua, tổng 4.100m2, phần diện tích còn lại là của vợ chồng ông Thới.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 23/9/2010, ông Thới, bà Phúc rút yêu cầu xem xét phần diện tích còn lại sau khi đã chuyển nhượng, đê nghị Tòa án tuyên các Họp đồng chuyển nhượng giữa ông Thới với ông Bắc và bà Vân, bà Hạnh vô hiệu. Gia đình ông Thới sẽ trả lại vàng cho các bên như đã nhận, việc bôi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bà Trần Thị Phúc thống nhất với trình bày của ông Thói và anh Dũng và trình bày: Tại các văn bản chuyển nhượng đất bà không ký nhưng bà là vợ của ông Thới nên đồng ý với việc chuyển nhượng của ông Thới. Bà đồng ý với việc

Tòa án công nhận quyền sử dụng đất cho bà Vân 1500m2, bà Hạnh 600m2, ông Bắc 2000m2 .

Những người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Hữu Bắc trình bày: Năm 1998, ông mua của ông Trần Văn Thói 2400m2 đất (sau trả lại 400m2) có nhà cấp 4 trên đất, thời điểm đó chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông đã thanh toán đủ cho ông Thói 20 cây vàng. Ông Thói nhờ ông làm thủ tục và đến ngày 04/8/2003 thì ông Thới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng 4.293m2 đất. Sau đó, hai bên có tiến hành thủ tục tách thửa nhưng do chính sách tại thời điểm này không cho tách thửa nên không thực hiện được.

Năm 2004, ông Bắc bán cho bà Hạnh 2000m2 đất nêu trên cho bà Hạnh với giá 600.000.000d, ông có thông báo cho vợ chồng bà Phúc, ông Thói.

Năm 2008, ông Thói, bà Phúc muốn các bên hoàn chỉnh việc mua bán nên vào ngày 11/12/2008 ông Thói, bà Phúc đã làm Giấy ủy quyền cho ông Bắc được toàn quyền mua bán, tặng cho với diện tích đât đã mua. Ông Bắc giao Giấy ủy quyền và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Thói cho bà Hạnh để bà Hạnh làm thủ tục sang tên.

Nay ông không đồng ý hủy Giấy ủy quyền ngày 11/12/2008 và đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng 2000m2 đất cho bà Hạnh.

Anh Trần Hữu Dũng trình bày: Anh thừa nhận có bán cho bà Hạnh 400m2 đất của cha mẹ với giá 10 lượng vàng có ký Giấy nhận tiền nhưng hiện nay vợ anh đã bỏ nhà đi. Anh đồng ý thanh toán lại cho bà Hạnh căn cứ vào mức lương của anh 1.200.000đ/tháng sau khi trừ đi chi phí nuôi con.

Đối với căn nhà trên đất mà ông Bắc đã bán cho bà Hạnh thì nếu đo vẽ xác định nhà nằm trên đất của ông Bắc thì anh dồng ý trả lại cho ông Bắc, anh không yêu cầu bồi thường tiền sửa chữa nhà.

Các con của ông Thói, bà Phúc gồm các anh, chị: Thế, Thu, Duyên, Trinh, Tuấn, Chính, Dung, Hoài, Dũng trình bày: Nguồn tiền mua đất là do cả gia đình đóng góp nên nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hộ gia đình. Ồng Thói, bà Phúc tự ý bán đất không hỏi ý kiến các anh, chị. Các anh, chị yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Thói, bà Phúc với bà Hạnh, bà Vân, ông Bắc và không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi hủy họp đồng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm ố 33/2010/DS-ST ngày 23/9/2010, Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu quyết định: (tóm tắt)

- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Thới và bà Trần Thị Phúc đối với yêu cầu công nhận diện tích đất tại thửa C+E+F.

- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Thới và bà Trần Thị Phúc đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

- Hợp đồng ủy quyền giữa ông Thới và bà Phúc với ông Nguyễn Hữu Bắc có hiệu lực thi hành.

- Ông Trần Tiến Đức, bà nguyễn Thị Hạnh được quyền sử dụng đất có diện tích 4.229m2 (diện tích đất của 47 thửa là 3.444,lm2; đất dự kiến mở đường 784,9m2) trên đất có căn nhà cấp 4, có các thửa mới: từ số thửa 115 đến số thửa 125, từ số thửa 293 đến số thửa 328 thuộc thờ bản đồ số 38 + 45 phường 11, thành phố Vũng Tàu.

- Buộc ông Trần Hữu Dũng, bà Trần Thị Lệ Thu phải trả lại quyền sử dụng căn nhà cấp 4 tọa lạc tại thửa số 62 (cũ) tờ bản đồ 37 (thửa mới 38 + 45) cho ông Đức, bà Hạnh.

- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Văn Thói, bà Trần Thị Phúc, ông Trần Hữu Dũng hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Thói và bà Trần Thị Phúc với ông Trần Hữu Dũng lập ngày 20/9/2004.

- Ghi nhận sự thỏa thuân của bà Nguyễn Thị Hạnh, ông Trần Tiến Đức, bà Lâm Thị Thủy: Bà Hạnh, ông Đức hỗ trợ cho bà Thủy 10.000.000d. Bà Thủy, ông Tá di dời khỏi diện tích đất tại thửa số 62, tờ bản đồ 37, nay là thửa 38+45 thuộc quyền sử dụng đất của bà Hạnh, ông Đức.

Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và chi phí tố tụng khác.

Ngày 07/10/2010, bà Hạnh có đơn kháng cáo.

Ngày 08/10/2010, ông Thói và bà Phúc và các con Trần Nhân Thế, Trần Quốc Tuấn có đơn kháng cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 12/2011/DS-PT ngày 03/3/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng tàu đã quyết định giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Ngày 20/4/2011, ông Thới, bà Phúc có đơn đề nghị và Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vững Tàu cũng có Công văn số 609/HĐND-VP ngày 20/9/2011 kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Kháng nghị số 548/2013/DS-KN ngày 02/12/2013 đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 12/2011/DS-PT ngày 03/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2010/DS-ST ngày 23/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí và đề nghị chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận;

XÉT THẤY

Thửa đất số 62 tờ bản đồ 37 (cũ) tại phường 11, thành phố Vũng Tàu là do vợ chồng ông Trần Văn Thói, bà Trần Thị Phúc nhận chuyển nhượng của ông Lê Văn Kiên năm 1989; năm 1996 ông Kiên lập văn bản chuyển quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Thói, có xác nhận của ủy ban nhân dân phường 11, ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu và Sở địa chính tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Năm 2003, ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho “Hộ Trần Văn Thới”. Tại biên bản xác minh ngàỵ 14/9/2010, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Vũng Tàu cung cấp: chữ “hộ” trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 62 được hiểu là của vợ chồng ông Thói, không phải là quyền sử dụng chung của các con. Như vậy, đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông Thói nên ông Thói, bà Phúc có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không cần phải hỏi ý kiến các con trong gia đình.

Năm 2001, vợ chồng ông Thới chuyển nhượng cho bà Vân và bà Hạnh 2500m2 đất (vợ chồng bà Vân đồng ý để vợ chồng bà Hạnh đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng và toàn quyền định đoạt sử dụng). Năm 2002, ông Thói chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hữu Bắc 2400m2, sau này ông Bắc trả lại 400m2 cho ông Thói nên hai bên thống nhất đất chuyển nhượng là 2000m2. Năm 2004, ông Bắc chuyển nhượng 2000m2 đất này cho bà Hạnh và có thông báo cho vợ chồng ông Thói biết, vợ chồng ông Thói không có ý kiến gì. Như vậy, vợ chồng bà Hạnh nhận chuyển nhượng tổng diện tích đất là 4500m2 đất và nhà cấp 4 của vợ chồng ông Thói và đã giao đủ tiền, vàng cho bên bán; ông Thói, bà Phúc đã giao đất cho vợ chồng bà Hạnh nhưng các bên chưa làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Do Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên chưa lập Hợp đồng có công chứng chứng thực theo quy định của pháp luật và thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền. Nên lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải ra quyết định buộc các bên phải thực hiện quy định về hình thức của họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại ra Thông báo số 113/TB-TA ngày 12/9/2009 yêu cầu các bên hoàn thiện hình thức hợp đồng nhưng vợ chồng ông Thới không thực hiện, là không đúng với quy định tại Điều 134 Bộ luật dân sự.

Tại thời điểm các bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì đất chuyển nhượng là đất “nông nghiệp”, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ đất “nông nghiệp” của vợ chồng ông Thới có phải là đất chuyên trồng lúa nước hay không; nếu là đất nông nghiệp chuyên trồng lúa nước thì vợ chồng bà Hạnh có đủ điều kiện để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 103 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 10/8/2004 của Chinh phủ về việc Thi hành Luật đất đai (Đã được sửa đổi, bổ sung theo các Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngằy 13/8/2009, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngay 23/7/2010 và Nghị định số 45/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 của Chính phủ) hay không.

Tuy nhiên, ngày 22/8/2006 Phòng Quản lý đô thị thuộc ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp “Chứng chỉ quy hoạch” số 166/CCQH.QLĐT cho ông Trần Văn Thới thửa đất số 62, tờ bản đồ số 37, tổng diện tích 4.293m2 đất. Theo đó, thửa đất của ông Thói đã được “quy hoạch khu dân cư” để xây dựng nhà ở và mở đường giao thông rộng 23m.

Ở Mục “Những thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Thới ngày 04/8/2003 có ghi: Ngày 11/8/2008, đã tách thành 47 thửa và được ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bao gồm các thửa từ thửa sô 293 đến thửa số 328 thuộc tờ bản đồ số 38; các thửa từ thửa số 115 đến thửa 125 thuộc tờ bản đồ số 45.

Như vậy, sau khi vợ chồng bà Hạnh nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Thới thì thửa đất số 62 tờ bản đồ số 37 (cũ) đã được ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu phê duyệt chuyển mục đích sử dụng thành đất khu dân cư để xây dựng nhà ở; thửa đất này cũng được tách thành 47 thửa và ngày 08/8/2008 ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp 47 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Thới, đều ghi mục đích sử dụng “Đât trông cây hàng năm” và thời hạn sử dụng đến tháng 8/2023. Tòa án câp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ để làm rõ cho đên nay, Ủyban nhân dân thành phố Vũng Tàu có thay đổi quy hoạch sử dụng đât và có thu hồi 47 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Thới hay không; hành vi tách thửa đất so 62 thành 47 thửa đất như nêu trên của bà Hạnh có vi phạm pháp luật về đất đai hay không, trên cơ sở đó mới có căn cứ công nhận họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoặc xác định Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu theo căn cứ mà Kháng nghị đặt ra hay không.

Về tố tụng:

Theo công văn số 609/HĐND ngày 20/9/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu thì ông Trần Tiến Đức đang là công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu nên ông Đức chỉ có thể làm người đại diện cho vợ là bà Nguyên Thị Hạnh. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm châp nhận cho ông Trân Tiến Đức đại diện theo ủy quyền cho vợ chồng ông Đinh Chí Đức và bà Võ Thị Khánh Vân là vi phạm K3 Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự.

Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần xem xét “Hợp đồng mua bán đất ngày 03/4//2002” giữa ông Thới và ông Bắc có nội dung “ông Thới đồng ý chuyển nhượng đất cho ông Bắc được sự đồng ý của ông Trân Văn Hùng người đã thanh toán tiền”. Ông Hùng chết năm 2003 nên phải đưa những người thừa kế của ông Hùng tham gia tô tụng đê làm rõ vê việc chuyên nhượng đât giữa các bên thì mới giải quyết triệt để vụ án.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị sổ 548/2013/DS-KN ngày 02/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 12/2011/DS-PT ngày 03/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2010/DS-ST ngày 23/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Hạnh, ông Trần Tiến Đức, ông Đinh Chí Đức, bà Võ Thị Khánh Vân với bị đơn là vợ chồng ông Trần Văn Thời, bà Trần Thị Phúc và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 64/2014/DS-GĐT ngày 27/02/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English