QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM  65/2014/DS-GĐT NGÀY 27/02/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 27/02/2014 tại trụ sở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2010/DS-PT ngày 01/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, có các đương sự:

Nguyên đơn: Lê Thị Vân, sinh năm 1969;

Bị đơn: Lê Khắc Hà, sinh năm 1978 và vợ là Bùi Thị Mỹ, sinh năm 1979; Các đương sự cùng trú tại xóm Phú Yên, xã Phú Gia, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/3/2010 và trong quá trình tố tụng, chị Thị Vân trình bày:

Đất của vợ chồng chị tại xóm Phú Yên, xã Phú Gia, huỵện Hương Khê, Tĩnh gồm 2 phần: Phần phía trước do vợ chồng chị mua của ủy ban nhân dân Phú Gia; phần phía sau do cha chồng của chị (ông Cộng) cho. Ngày 16/10/2007, vợ chồng chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 186m2. Ngày 17/10/2009, anh Lê Khắc Hà (nhà liền kề) đã đập phá hàng rào, lấn chiếm một phần đất tại góc vườn phía sau và chặt phá một số cây cối của chị. Khi chị ngăn cản thì bị anh Hà đánh đập phải đi điều trị tại Bệnh viện Hương Khê với chi phí hết 3 triệu đồng, nên chị khởi kiện yêu cầu anh Hà trả lại diện tích đất lấn chiếm, đồng thời bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe cũng như tài sản bị phá hoại. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị rút yêu cầu bồi thường về các khoản thiệt hại, giữ nguyên yêu cầu buộc anh Hà trả lại diện tích đất lấn chiếm.

Bị đơn là anh Lê Khắc Hà do ông Lê Xuân Tùy làm đại diện trình bày:Ngày 18/5/2006, ông Cộng chuyển nhượng cho anh 437m2 đất (có tứ cận) tại xóm Phú Yên, xã Phú Gia, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh với giá 4,5 triệu đồng.

Giấy chuyển nhượng có chữ ký, điểm chỉ, người làm chứng, xác nhận của Chủ tịch ủy ban nhân dân xã vào ngày 28/6/2006. Ngoài ra, ngày 28/6/2006, hai bên còn lập họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thổ cư, họp đồng có chữ ký của các thành viên trong gia đình, người làm chứng là ông Trần Kim Mỹ (xóm trưởng) xác nhận, nhưng do anh bị ốm, nên chưa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được. Anh không đồng ý trả lại đất theo yêu cầu của chị Vân.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 26/8/2010, Tòa án nhân dân huyện Hương Khê đã quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vân.

Ngày 31/8/2010, chị Vân có đơn kháng cáo yêu cầu anh Hà trả lại 42,3m2 đất lấn chiếm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 22/2010/DSPT ngày 01/12/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh quyết định sửa bản án sơ thẩm như sau:

Buộc anh Lê Khắc Hà phải trả lại 42,3m2 cho chị Lê Thị Vân (lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 238908 cấp ngày 16/10/2007 mang tên anh Nai Anh chị Lê Thị Vân đo đủ diện tích đất như trong giấy chứng nhận đã cấp).

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 20/12/2010, anh Hà có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Kháng nghị số 547/2013/DS-KN ngày 28/11/2013 đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2010/DS-PT ngàỵ 01/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Nguồn gốc đất tranh chấp tại xóm Phú Yên, xã Phú Gia, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh là của cụ Nai Cộng. Ngày 19/10/1999 cụ Nai Cộng lập “Giấy ủy quyền” cho con trai là ông Nai Nga được quyền quản lý, sử dụng nhà gỗ và khoảng 2.000m2 đất vườn. Năm 2005, cụ Cộng chia đất cho 4 người con là các ông Nai Nga, Nai Hùng, Nai Anh, Nai Dũng mỗi người một phần và để lại một phần diện tích để cụ Cộng sử dụng.

Ngày 25/6/2006 bà Đoàn Thị Lâm là vợ ông Nai Nga được ông Nai Nga ủy quyền tiến hành lập văn bản thống nhất chuyển nhượng cho anh Lê Khăc Hà phần đất mà ông Cộng để lại có diện tích 437m2. Ngày 28/6/2006 cụ Cộng lập “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” cho anh Hà, diện tích chuyển nhượng là 43 7m2, có kích thước các cạnh đông, tây, nam băc lân lượt là 22m, 9,1m, 31m và 25,4m. Tuy nhiên, việc mua bán mới được lập thành văn bản, các bên chưa thực hiện việc giao đất, giao tiền.

Sau khi cụ Cộng chết (ngày 4/2/2007), ngày 12/3/2007 ông Nai Nga lập “Giây bán vườn tô tiên” có nội dung ông Nga bán cho ông Nai Dũng phân đât vườn còn lại ngoài phần cụ Cộng khi còn sống đã chia cho các con.

Tại Tòa án, bà Vân cho rằng tuy năm 2006 cụ Cộng có ký giấy bán đất cho anh Hà nhưng các bên không thực hiện việc giao đất, giao tiền nên sau đó giao đình bán lại phần đất này cho ông Nai Dung và năm 2009 ông Dúng bán lại cho anh Hà với giá 23.000.000đ. Anh Hà và ông Tùy (cha anh Hà và cũng là người đại diện cho anh Hà) cho rằng mua đất của cụ Cộng từ năm 2006 và đã trả đủ tiền nhưng cũng vẫn thừa nhận năm 2009 lại mua đất với ông Dũng với giá 23.000.000đ và đã trả đủ tiền cho ông Dũng.

Như vậy, có căn cứ xác định việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cuối cũng giữa gia đình cụ Cộng với anh Hà là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nai Dũng với anh Hà vào ngày 02/10/2009 như Tòa án cấp phúc thẩm xác định là có căn cứ.

Tuy nhiên, theo xác nhận của ủy ban nhân dân xã Phú Gia tại Biên bản xác minh lập hồi giờ 30 phút ngày 16/6/2010 (bl 48) thì đất anh Hà đang sử dụng là thửa số 138 đứng tên ông Nai Dũng, còn thửa của ông Dũng đang sử dụng là thửa số 141 diện tích 356m2. Cũng theo Biên bản xác minh lập hồi 15giờ cùng ngày 16/6/2010 (bl 49) thì thửa đất số 141 của ông Nai Dũng lại có diện tích 392m2.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ các tình tiết nêu , trên; làm rõ sự mâu thuẫn trong các văn bản do chính quyền địa phương lập hoặc các nhận; đồng thời chưa thu thập đầy đủ các tài liệu để làm rõ diện tích đất của cụ Cộng và việc phân chia trong gia đình cụ Cộng như thế nào; phần đất ọ I cụ Cộng để lại là 43 7m2 hay là bao nhiêu; phần đất ông Nai Nga chuyển nhượng cho ông Nai Dũng năm 2007 là bao nhiêu m2 (giấy mua bán có ghi kích thước- 43i các cạnh); thửa đất ông Nai Dũng chuyển nhượng cho anh Hà là thửa số 138 hay thửa số 141; nếu là thửa 141 thì diện tích là bao nhiêu m2, 356m2 hay 392m2. Tại Biên bản thẩm định tại chỗ thực tế sử dụng đất thi diện tích đất của anh Hà là 392m2, của bà Vân là 143,7m2. Trong khi đó thì tại “Biên bản kiểm tra thửa đất xin cấp đổi giấy chứng nhận” do ủy ban nhân dân xã Phú Gia lập ngày 17/3/2010 thì diện tích đất của gia đình bà Vân là 186m2 và xác định “Qua kiểm tra hồ sơ và thực địa gia đình sử dụng đất đúng ranh giới, đúng mục đích, không có tranh chấp khiếu nại” đủ điều kiện cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (di Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ bị rách).

Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ họp đồng chuyển nhượng đất thổ cư ngày 28/6/2006 giữa ông Cộng và anh Hà để xác định anh Hà mua 437m2, trong khi diện tích thực tế anh Hà đang sử dụng 396m2 (thiếu 41m2); hồ sơ câp giây chứng nhận quyền sử dụng đất của chị Vân không có biên bản giao đất thực địa đê cho rằng việc gia đình chị Hà thiếu đất không phải lỗi của vợ chồng anh Hà lấn chiếm để xác định yêu cầu của chị Vân không có căn cứ. Còn Tòa án cấp phúc thâm căn cứ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2007 cho chị Vân, anh Nai Anh để xác định anh Hà mua đất của anh Dũng vào ngày 2/10/2009 (sau khi chị Vân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để chấp nhận yêu cầu của chị Vân, buộc anh Hà hoàn trả 42,3m2 đều là chưa đủ căn cứ.

Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần xác định đầy đủ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc tranh chấp quyền sử dụng đất nêu trên để đưa họ vào tham gia tố tụng, đảm bảo quyền và lợi ích hơph pháp của các đương sự.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị số 547/2013/DS-KN ngày 28/11/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2010/DS-PT ngày 01/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh về vụ án “Tranh chấp đất đai” giữa nguyên đơn là chị Lê Thị Vân với bị đơn là anh Lê Khắc Hà, chị Bùi Thị Mỹ.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 65/2014/DS-GĐT ngày 27/02/2014 về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English