QUYẾT ĐỊNH TÁI THẨM 517/2014/DS-TT NGÀY 16/12/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 16/12/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử tái thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất “ giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1- Ông Lê Bằng, sinh năm 1947;

2- Bà Trịnh Thị Ca (vợ ông Bằng), sinh năm 1952;

Cùng trú tại: 340, khu 4, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Bị đơn:

1- Ông Võ Thành Đạt (Bảy Thung), sinh năm 1937;

2- Bà Nguyễn Thị Vinh, sinh năm 1951; cùng trú tại: 342, khu 4, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

(Ông Đạt ủy quyền cho bà Vinh tham gia tố tụng).

NHẬN THẤY

Năm 1982 ông Lê Bằng chuyển nhượng cho ông Võ Thành Đạt 1.200mđất thổ cư (nhưng thực tế là đất nông nghiệp) tại thôn Liên Hiệp, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng (nay là thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng) vói giá tiền 25.000đ, giấy chuyển nhượng không ghi tứ cận và số đo từng chiều thửa đất, chỉ có ông Bằng ký tên và không có chính quyền địa phương xác nhận. Phần còn lại ông Bằng vẫn canh tác. Ngày 06/10/1993 cả ông Bằng và ông Đạt đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích đất của ông Bằng là 4.204m2, diện tích đất của ông Đạt là 1.269m2. Năm 2001 ông Bằng đo lại đất thì thấy đất ông Đạt dư nhiều so với giấy sang nhượng nên ông Bằng đi kiện, ông cho rằng ông Đạt lấn chiếm đất mặt tiền đường Chu Văn An của vợ chồng ông là 5,73m chiều sâu kéo thẳng ra phía trường cấp m Đức Trọng là 47,9m. Nay vợ chồng ông Bằng yêu cầu vợ chồng ông Đạt phải trả lại 274,46m2(5,73m X 47,9m).

Vợ chồng ông Đạt cho rằng không lấn chiếm đất của ông Bằng, bởi vi khi sang nhượng vợ chồng ông Bằng đo cho vợ chồng ông 33m mặt tiền đường Chu Văn An, nhưng đo đạc thực tế chỉ có 32,7m. Ông Đạt cho rằng theo đo đạc thực tế đất của ông có dư 145m2 theo sơ đồ địa chính là dư phía sau trường cấp in Đức Trọng, là do trước đây trường xây bờ tường, xây thẳng bỏ lại diện tích đất nên vợ chồng ông tận dụng luôn, chứ ông không lấn chiếm đất của ông Bằng, vợ chồng ông Đạt yêu cầu giữ nguyên diện tích đất mà các bên đang sử dụng gần 20 năm nay.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 80/2002/DS-ST ngày 25/7/2002, Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng quyết định:

Bác yêu cầu của vợ chồng ông Lê Bằng, bà Trịnh Thị Ca về việc đòi lại 4,33m đất mặt tiền đường Chu Văn An, chiều ngang kéo thẳng ra phía sau trường cấp III Đức Trọng là 47,9m (4,33m X 47,9m = 207,40m).

Tạm giao diện tích đất dư 42m2 của vợ chồng ông Lê Bằng và diện tích đất dư 145m2 của vợ chồng ông Võ Thành Đạt cho các bên tạm tiếp tục sử dụng, đồng thời kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Đức Trọng truy thu thuế đất nông nghiệp diện tích đất dư ra của vợ chồng ông Lê Bằng là 42m2, vợ chồng ông Võ Thành Đạt là 145m2 và điều chỉnh lại diện tích đất thực tế dư ra so với diện tích đất trong bản đồ địa chính.

Vợ chồng ông Bằng phải chịu 50.000đ án phỉ dân sự sơ thẩm và 180.000đ tiền chi phí định giả và đo đất (đã tạm nộp 50.000đ và 180.000đ tiền đo đất).

Ngày 26/7/2002 vợ chồng ông Bằng có đơn kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 75/2002/DSPT ngày 28/11/2002, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:

Chấp nhận một phần kháng cáo của vợ chồng ông Lê Bằng, bà Trịnh Thị Ca.

Sửa án sơ thẩm.

Giao vợ chồng ông Võ Thành Đạt, bà Nguyễn Thị Vinh sử dụng 1.296mđất màu có mặt tiền giáp đường Chu Văn An 28,70m, mặt sau giáp trường cấp III Đức Trọng 29,50m, chiều dài giáp đường đi là 41,30m, chiều dài phía giáp phần đất đang tranh chấp là 47,72m, tọa lạc tại thôn Liên Hiệp, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Vợ chồng ông Võ Thành Đạt, bà Nguyễn Thị Vinh phải thanh toán cho vợ chồng ông Lê Bằng, bà Trịnh Thị Ca 432.000đ giá trị 96m2 đất màu và 950.000đ tiền chi phí đo đạc.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 10/8/2003 Ủy ban nhân dân huyện Đức Trọng ra Quyết đinh số 1305/QĐ-UB về việc thu hồi đất dư so với diện tích đất được cấp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Không đồng ý với quyết định trên, ông Bằng làm đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân huyện Đức Trọng. Ngày 17/3/2004 Ủy ban nhân dân huyện Đức Trọng có công văn số 210/UB bác khiếu nại của ông Bằng. Do không đồng ý, ngày 05/4/2004 ông Bằng khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 04/HCST này 30/6/2004, Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng quyết định:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Bằng, giữ nguyên Quyết định số 1305/QĐ- UB ngày 10/8/2003 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Trọng.

Ngày 02/7/2004 ông Bằng có đơn kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Tại bản án số 01/HCPT ngày 19/01/2005, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:

Hủy bản án hành chính sơ thẩm số 04/HCST này 30/6/2004 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng và đình chỉ giải quyết vụ án. Giao hồ sơ vụ án cho ủy ban nhân dãn tỉnh Lâm Đồng giải quyết theo thẩm quyền.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Bằng, bà Vinh khiếu nại đến Tòa án nhân dân tối cao.

Ngày 04/11/2005, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định kháng nghị số 158/2005/KN-DS, kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 75/2002/DSPT ngày 28/11/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng

Đề nghị hủy bản án sơ thẩm và hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Ngày 19/12/2005, Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định giám đốc thẩm số 212/2005/DS-GĐT quyết định:

Hủy bản án dân sự sơ thẩm sổ 80/2002/DSST ngày 25/7/2002 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng và bản án dân sự phúc thắm sổ 75/2002/DSPT ngày 28/11/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, xét xử về việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Lê Bằng và ông Võ Thành Đạt.

Giao lại hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Trong quá trĩnh điều tra, xác minh, ngày 24/7/2006 Ủy ban nhân dân huyện Đức Trọng ra Quyết định số 1379/QĐ-UBND về việc thu hồi Quyết định số 1305/QĐ-UB ngày 10/8/2003 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Trọng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 154/2006/DSST ngày 18/8/2006, Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng quyết định:

Bác yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Lê Bằng đòi vợ chồng ông Đạt giao trả 96m2 đất.

Buộc vợ chồng ông Lê Bằng phải giao lại cho vợ chồng ông Đạt số tiền 1.382.000đ giá trị của 96m đất và chi phí đo đạc trước đây vợ chồng ông Đạt đã thanh toán cho vợ chồng ông Bằng.

Vợ chồng ông Đạt sử dụng diện tích 1.296m2 (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) cỏ mặt tiền giáp đường Chu Văn An 32m, mặt sau giáp trường cấp III Đức Trọng 32m, chiều dài giáp đường công cộng 38m và chiều dài giáp ranh đất ông Bằng là 43m. Tọa lạc tại khu 4, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Tạm giao diện tích đất dư 120m2 cho vợ chồng ông Đạt tạm sử dụng và có nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/8/2006, vợ chồng ông Bằng, bà Ca kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm, với ly do không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 203/2008/DSPT ngày 27/10/2008, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cảo của vợ chồng ồng Lê Băng, bà Trịnh Thị Ca.

Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 154/2006/DSST ngày 18/8/2006 của Tòa ản nhân dân huyện Đức Trọng.

Giữ nguyên vị trí lô đất theo tờ bản đồ hiện trạng sử dụng đất của thửa 128 do Trung tâm thông tin - Đăng kỷ quyền sử dụng đất tỉnh Lâm Đồng lập ngày 07/02/2007, có diện tích là 1.219,3m2, sau khỉ trừ lộ giới có tứ cận như sau:

Đông giáp đất ông Bằng: cỏ chiều dài 45,05m;

Tây giáp đường hẻm công cộng có chiều dài là 39,63m;

Nam giáp đất dư của trường cấp III Đức Trọng có chiều dài 29,44m;

Bắc giáp đường Chu Văn An có chiều dài 29,32m.

Vợ chồng ông Võ Thành Đạt, bà Nguyễn Thị Vinh có trách nhiệm thanh toán sổ tiền chênh lệch đối với phần diện tích đất vượt quá so với hợp đồng chuyển nhượng là 32.810.000đ và 6.583.250đ tiền chi phí đo đạc, thẩm định giá cho vợ chồng ông Lê Bằng, bà Trịnh Thị Ca.

Vợ chằng ông Võ Thành Đạt, bà Nguyễn Thị Vinh có trách nhiệm liên hệ với Ủy ban nhân dân có thẩm quyên đăng ký quyền sử dụng đât, để cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyển sử dụng đất theo họa đồ mới lập ngày 07/02/2007. Trả lại cho vợ chồng ông Đạt, bà Vinh số tiền 1.382.000đ, để đảm bảo việc thi hành án, tiếp tục tạm giữ.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Vinh có đơn đề nghị xem xét lại vụ án theo trĩnh tự tái thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 354/2014/KN-DS ngày 19/9/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 203/2008/DSPT ngày 27/10/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử Tái thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm nêu hên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa tái thẩm ngày 16/12/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Tái thẩm không chấp nhận Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để xét xử theo trình tự tái thẩm; mà chỉ có căn cứ để xét xử theo trình tự giám đốc thẩm (vì các tình tiết trong kháng nghị đã đều thể hiện trong hồ sơ vụ án).

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở kết luận vợ chồng ông Lê Bằng, bà Trịnh Thị Ca canh tác lô đất diện tích 5.604m2 tại khu 4, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng từ năm 1976. Năm 1982, ông, bà chuyển nhượng cho ông Võ Thanh Đạt, bà Nguyễn Thị Vinh 1.200m2 trong diện tích đất trên, với giá 25.000đ. Việc chuyển nhượng chỉ lập giấy viết tay, nhưng không xác định tứ cận, số đo từng canh của thửa đất. Khi giao đất, hai bên cũng không đo đạc, cắm mốc ranh giới cụ thể.

Ngày 06/10/1993, gia đình ông, bà và gia đình ông Đạt đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông được cấp 4.204m2 thuộc thửa 161, tờ bản đồ số 05, còn ông Đạt được cấp 1.296m2 thuộc 128, tờ bản đồ số 05.

Tháng 3/2001, gia đĩnh ông, bà và gia đình ông Đạt đo lại đất, thì phần đất ông, bà sử dụng thực tế là 4.136m2 (giảm 68m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); phần đất gia đình ông Đạt sử dụng là 1.400m2 (nhiều hơn so với thỏa thuận chuyển nhượng và diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Như vậy, diện tích đất của gia đình ông Đạt nhiều lên là do lấn chiếm đất của ông, bà, cụ thể gia đình ông Đạt lấn chiếm chiều ngang giáp đường Chu Văn An là 5,3m, chiều sâu là 47,9m, tổng diện tích là 274,46m2. Do vậy, ông, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc gia đình ông Đạt trả lại diện tích đất nói trên.

Tại phiên tòa sơ thẩm, vợ chồng ông Bằng đồng ý cho vợ chồng ông Đạt l,4m ngang đất mặt đường Chu Văn An và yêu cầu vợ chồng ông Đạt phải trả diện tích đất là 207,4m2 (ngang 4,33m, dài 47,9m).

Bị đơn là bà Nguyễn Thị Vinh đồng thời là người đại diện cho ông Đạt lại cho rằng, khi cắm mốc giao đất, ông Bằng đã giao cho gia đình bà 33m chiều ngang giáp đường Chu Văn An. Khi đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (năm 1993), Cán bộ địa chính cũng đo đúng theo mốc giới mà ông Bằng đã cắm. Việc hiện nay gia đình bà sử dụng diện tích đất nhiều hơn so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (khoảng 145m2) là do khi Trường cấp III Đức Trọng xây tường rào đã bỏ thừa lại đất và gia đình bà đã tận dụng, sử dụng, chứ không phải do lấn chiếm của gia đình ông Bằng. Do vậy, bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Bằng.

Tại Biên bản xác minh ngày 30/12/2013, tập thể Lãnh đạo Trường cấp m Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xác nhận “theo trích lục bản đồ địa chính năm 1997 thì thửa đất của nhà trường có số thửa là 127, diện tích là 30.897m2. Tuy nhiên, hiện tại nhà trường chỉ sử dụng diện tích là 28.407m2 (thửa số 222), tức là thửa đất hiện nay có bị thiếu so với diện tích đo vẽ năm 1997, lý do bị thiếu hụt là do bị trừ lộ giói, trụ điện và ranh giới sử dụng có biến động.

Về ranh giới giữa thửa đất của nhà trường và thửa đất của ông Lê Bằng và ông Võ Thành Đạt trước kia được phân cách bởi cọc sắt, hàng rào kẽm gai và không phải là một đường thẳng; quá trinh canh tác có thể các hộ dân liền kề di chuyển cọc sắt để lấn đất, nhưng nhà trường không biết và không kiểm soát được.

Khoảng cuối năm 1998, nhà trường tiến hành xây dựng tường rào kiên cố và hiện nay hàng rào ngăn cách thửa đất của nhà trường với thửa đất của ông Bằng, ông Đạt là một đường thẳng, có thể khi xây dựng nhà trường xây theo đường thẳng nên có thể không xây hết đất, diện tích đất còn thừa lại thì các hộ dân liền kề lấn chiếm sử dụng hết. Hiện nay, ngoài hàng rào kiên cố, không còn đất của nhà trường..

Như vậy, theo các tài liệu địa chính và thửa đất của nhà trường thì trường bị giảm gần 2.500m2, trong đó có một phần nguyên nhân do ranh giới biến động; ranh giới thửa đất của nhà trường với thửa đất của ông Bằng, ông Đạt trước kia là. ranh giới tạm, không cố định và không phải là một đường thẳng, khi xây dựng lại, hàng rào kiên cô thì ranh giới hiện nay là một đường thăng. Trong khi đó hiện trạng sử dụng đất của gia đình ông Đạt có tăng lên so với diện tích ghi trong bản đồ thửa đất năm 1992. Do vậy, có cơ sở xác định quá trinh sử dụng đất, ông Đạt có lấn chiếm một phần diện tích đất của nhà trường, đúng như ông Đạt, bà Vinh trình bày. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào Biên bản đo đạc hiện trạng ngày 15/10/2007 để công nhận ông Đạt có quyền sử dụng 1.219,3m2, đồng thời buộc ông Đạt hoàn trả giá trị diện tích đất vượt quá 1.200m2 cho ông Bằng là không chính xác.

Xác nhận của tập thể lãnh đạo Trường phổ thông trung học Đức Trọng và các tài liệu có liên quan nêu trên là tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm, nên cần kháng nghị tái thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên để giải quyết lại vụ án đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

Vĩ các lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 305, khoản 2 Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 354/2014/KN-DS ngày 19/9/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 203/2008/DSPT ngày 27/10/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 154/2006/DSST ngày 18/8/2006 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đấf’ giữa nguyên đơn là vợ chồng ông Lê Bằng, bà Trinh Thị Ca với bị đơn là vợ chồng ông Võ Thành Đạt, bà Nguyễn Thị Vinh.

 

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH TÁI THẨM 517/2014/DS-TT NGÀY 16/12/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án